TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 42/2021/HS-ST NGÀY 25/05/2022 VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 25 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 31/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2022 đối với:
- Bị cáo:
Võ Khắc S, sinh ngày 26 tháng 01 năm: 2002; nơi sinh: LX, tỉnh An Giang; nơi cư trú: số A, tổ B, khóm ĐH, phường ĐX, thành phố LX; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Khắc H, sinh năm 1976 và bà Nguyễn Thị Mỹ L, sinh năm 1976; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: chưa; tiền sự: chưa; quá trình nhân thân: Từ nhỏ đến lớn sống chung với mẹ, đi học hết lớp 9 thì nghỉ học.
Bị bắt, tạm giam ngày 05 tháng 3 năm 2021. Bị cáo có mặt tại phiên toà
- Người bào chữa cho bị cáo S: Luật sư Huỳnh Thảo L – Văn phòng Luật sư HHP thuộc Đoàn luật sư tỉnh An Giang.
Địa chỉ: số C, đường THĐ, tổ D, khóm BL, phường MB, thành phố LX, tỉnh An Giang. (Có mặt)
- Bị hại: Cháu Nguyễn Thị Kim L, sinh ngày 17/3/2007. Địa chỉ: Số E/F, khóm ĐH, phường ĐX, thành phố LX, tỉnh An Giang. (Có mặt)
- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị Yến T, sinh năm 1984. Địa chỉ: Số E/F, khóm ĐH, phường ĐX, thành phố LX, tỉnh An Giang. (Có mặt)
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Ông Lương Minh H – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh An Giang. (Có mặt)
- Đại diện trường học bị hại: Ông Châu Ngọc P, sinh năm 1975. Địa chỉ: Trường trung học cơ sở HV, UVK, phường ĐX, thành phố LX, tỉnh An Giang. (Có mặt)
- Đại diện Phòng Lao động – Thương binh xã hội thành phố LX: Ông Dương Thanh T, sinh năm 1985. Địa chỉ số G/H, khóm TK, phường MH, thành phố LX, An Giang. (Có mặt)
- Người làm chứng:
1. Nguyễn Song H1, sinh năm 2004. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 30 ngày 08 tháng 10 năm 2021, Võ Khắc S không mặc áo, mặc quần đùi, ngồi trên ghế trước nhà của ông Nguyễn Duy T (dượng của S) tại số A, tổ B, khóm ĐH, phường ĐX, thành phố LX thì thấy em Nguyễn Thị Kim L, sinh ngày 17 tháng 3 năm 2007, (hàng xóm của S) mặc đầm màu đen dài đến đầu gối đang chơi với em Nguyễn Thị Thanh T1 (sinh năm 2015) trên đường dân cư ROM. Lúc này, S gọi L đến, nắm tay kéo L ngồi trên đùi của S rồi hôn vào môi của L. L vùng vẫy để thoát ra nhưng không được. Do thấy L bị S nắm tay nên T1 chạy đến nhà L tại số E/F, khóm ĐH, phường ĐX cách đó khoảng 08m nói cho anh Nguyễn Song H1 (anh ruột của L, sinh ngày 10 tháng 9 năm 2004) biết nên H1 chạy đến nhà ông T. Thấy H1 đến nên S buông L ra. Sau đó, L đứng dậy cùng H1 về nhà. Đến ngày 09 tháng 10 năm 2021, L nói cho bà Nguyễn Thị Yến T là mẹ ruột của L biết sự việc trên nên bà T đến Công an phường ĐX tố giác. Ngày 05 tháng 3 năm 2022, Võ Khắc S bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố LX bắt tạm giam để điều tra.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 cái đầm màu đen của em L do chị Nguyễn Thị Yến T giao nộp (bút lục số 89).
Căn cứ bản kết luận giám định pháp y đối với trẻ em bị hoặc nghi bị xâm hại tình dục số 439/21/TDTE ngày 25 tháng 11 năm 2021 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang đối với em Nguyễn Thị Kim L, sinh ngày 17 tháng 3 năm 2007 xác định: Màng trinh nguyên vẹn. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 00% (bút lục số 38, 39).
Tại cáo trạng số 33/CT-VKS ngày 22/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên truy tố bị cáo Võ Khắc S về tội "Dâm ô với người dưới 16 tuổi" theo khoản 1 Điều 146 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị:
Về trách nhiệm hình sự: áp dụng khoản 1 Điều 146; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị xử phạt bị cáo Võ Khắc S phạt từ 09 tháng đến 01 năm tù về tội “Dâm ô với người dưới 16 tuổi".
Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Tịch thu tiêu hủy: 01 cái đầm màu đen của em L không còn giá trị sử dụng và bà T không yêu cầu nhận lại.
Về trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự 2015, Điều 586, 592 Bộ luật dân sự 2015. Buộc bị cáo S bồi thường số tiền 10.000.000 đồng cho cháu L, khấu trừ 2.000.000 đồng bị cáo đã nộp, buộc bị cáo bồi thường thêm số tiền 8.000.000 đồng.
Đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt với số tiền 10.000.000 đồng.
Luật sư bào chữa cho bị cáo S trình bày: Về tội danh thống nhất như viện kiểm sát truy tố. Về trách nhiệm dân sự bị cáo đã bồi thường 2.000.000 đồng, bị cáo đồng ý tiếp tục bồi thường thêm số tiền 8.000.000 đồng nên đề nghị ghi nhận. Về hình phạt đề nghị xem xét các tình tiết giảm nhẹ bị cáo đã bồi thường 01 phần thiệt hại; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo ăn năn hối cải; bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo; nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn. Đề nghị xem xét áp dụng mức án 6 tháng tù đối với bị cáo cũng đủ tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.
Trợ giúp viên pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Về tội danh và trách nhiệm dân sự thống nhất ý kiến Viện kiểm sát đề nghị. Về hình phạt tại phiên toà đại diện hợp pháp của bị hại đã xin giảm nhẹ hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Võ Khắc S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố. Bị cáo không tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên, bị cáo nói lời sau cùng đã ăn năn hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử phù hợp quy định pháp luật.
[2] Về trách nhiệm hình sự:
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ xác định: Khoảng 21 giờ 30 ngày 08 tháng 10 năm 2021 bị cáo Võ Khắc S (sinh năm 2002) khi ngồi trên ghế trước nhà ông T đã thực hiện hành nắm tay kéo bị hại Nguyễn Thị Kim L, sinh ngày 17 tháng 3 năm 2007 ngồi trên đùi bị cáo, sau đó bị cáo hôn vào môi của L, bị anh H1 phát hiện nên S buông cháu L ra để cháu L về nhà.
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền được bảo vệ về thân thể, nhân phẩm, danh dự và sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của trẻ em. Bị cáo thực hiện hành vi nhằm thoả mãn tình dục nhưng không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Dâm ô với người dưới 16 tuổi" theo khoản 1 Điều 146 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên truy tố bị cáo là có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.
Đối với hành vi L khai S dùng tay sờ vào ngực L nhưng S không thừa nhận. Ngoài lời khai của L không còn chứng cứ khác nên không có căn cứ để quy kết trách nhiệm hình sự S về hành vi này.
[3] Về tính chất mức độ của hành vi:
Trẻ em là những người đang trong độ tuổi phát triển, chưa hoàn thiện về mặt thể chất và tâm sinh lý. Vì vậy, khi trẻ bị xâm hại tình dục sẽ dẫn đến những hậu quả lâu dài không chỉ cho trẻ em là nạn nhân trực tiếp mà còn gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho gia đình trẻ em bị xâm hại và cộng đồng xã hội. Bị cáo là người trưởng thành, khỏe mạnh, có đủ khả năng nhận thức và điểu khiển hành vi của mình, nhưng không kìm chế được bản thân. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt: Bị cáo Võ Khắc S không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra ban đầu bị cáo thừa nhận hành vi kéo cháu L ngồi xuống đùi và hôn môi cháu L, sau đó bị cáo không thừa nhận hành vi hôn môi. Tại phiên toà bị cáo thừa nhận hành vi hôn môi cháu L và thừa nhận lời khai ban đầu là đúng, đồng thời bị cáo đã tác động gia đình nộp số tiền 2.000.000 đồng bồi thường thiệt hại cho bị hại nên được xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bồi thường thiệt hại; đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Hiện nay, tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em diễn ra phức tạp, tính chất mức độ ngày càng nghiêm trọng và có chiều hướng gia tăng, gây bức xúc trong dư luận và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Đối với đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị áp dụng điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS. Tuy nhiên, thiệt hại đối với bị bại bao gồm thiệt hại về thể chất và tinh thần nên không thể xem là chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn, do đó không có căn cứ chấp nhận đề nghị của luật sư. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy mức án Viện kiểm sát đề nghị là có cơ sở nên được xem xét chấp nhận.
[5] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.
[6] Về án phí sơ thẩm:
Bị cáo phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1]. Căn cứ vào khoản 1 Điều 146; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo Võ Khắc S phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”.
Xử phạt: Bị cáo Võ Khắc S 09 (chín) tháng tù Thời hạn tù tính từ ngày: 05/3/2022.
[2]. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự 2015, Điều 586, 592 Bộ luật dân sự 2015.
Buộc bị cáo S có trách nhiệm bồi thường số tiền 10.000.000 đồng cho cháu L, khấu trừ số tiền 2.000.000 đồng bị cáo đã nộp theo biên lai thu số 0001220 ngày 24/5/2022 của Chi cục thi hành án dân sự TPLX, buộc bị cáo bồi thường thêm số tiền 8.000.000 đồng.
[3]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Tịch thu tiêu hủy: 01 cái đầm màu đen dài 67 cm (đã qua sử dụng) (Theo biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố LX và Chi cục thi hành án dân sự thành phố LX ngày 09/5/2021)
[4] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Buộc bị cáo nộp số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm và số tiền 400.000 đồng (bốn trăm ngàn) án phí dân sự sơ thẩm.
[5] Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy đinh tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
(Đã giải thích điều 26 Luật thi hành án)
Bản án về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi số 42/2021/HS-ST
Số hiệu: | 42/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/05/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về