Bản án 27/2023/HS-ST về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN – THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 27/2023/HS-ST NGÀY 14/04/2023 VỀ TỘI DÂM Ô ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 14 tháng 4 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng xét xử sơ thẩm kín, vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2023/TLST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:

NGUYỄN DUY K. Sinh năm: 1988, tại Quảng Nam;

Nguyên quán: Xã Quế A, huyện Quế S, tỉnh Quảng Nam;

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ 12 phường Hòa Q, quận Ngũ Hành S, TP. Đà Nẵng.

Nghề nghiệp: Thợ điêu khắc đá; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính:

Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Nguyễn C và bà Lý Thị C1;

Tên vợ Vũ Thị H, có 02 con; lớn nhất sinh năm 2018, nhỏ nhất sinh năm 2022;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 30/6/2022- Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Duy K: Ông Nguyễn Ngọc C- Luật sư của Văn phòng luật sư Tân Hòa, thuộc Đoàn luật sư TP. Đà Nẵng; địa chỉ: 44 Lý Thường Kiệt, quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng- Có mặt.

- Bị hại: Cháu Vũ Lệ Tuyết M. Sinh ngày: 12/02/2015. Người đại diện H1 pháp của Vũ Lệ Tuyết M: Bà Vũ Thị H, sinh năm: 1993 (mẹ đẻ).

Cùng trú tại: Tổ 12 phường Hòa Q, quận Ngũ Hành S, TP. Đà Nẵng;

Địa chỉ liên hệ: Xóm Phà M1, xã Châu Q1, huyện Quỳ H1, tỉnh Nghệ An- Cháu M vắng mặt, bà H có mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Ông Bùi Xuân N- Luật sư, Trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước TP. Đà Nẵng; địa chỉ: 94 S, phường N, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng- Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồ Duy K và bà Vũ Thị H kết hôn năm 2017 và sinh sống cùng nhà tại tổ 12 phường Hòa Q, quận Ngũ Hành S, TP. Đà Nẵng. Giữa K và bà H có một con chung là cháu Nguyễn Vũ Tố U. Ngoài ra, bà H còn có một con riêng là cháu Vũ Lệ Tuyết M, sinh ngày 12/02/2015 cùng sống trong gia đình với K và bà M (cháu M gọi K là Ba). Trong khoảng thời giA từ tháng 9/2021 đến tháng 10/2021, K đã 02 lần có hành vi dâm ô đối với cháu M tại phòng ngủ của gia đình; cụ thể:

- Lần thứ nhất: Khoảng 05 giờ (không nhớ rõ ngày) tháng 9/2021, bà Vũ Thị H đi tập thể dục, Nguyễn Duy K đang ngủ cùng cháu Nguyễn Vũ Tố U và Vũ Lệ Tuyết M trên nệm trong phòng ngủ. Lúc này, chuông điện thoại của bà H báo thức nên K dậy và không thấy bà H mà thấy cháu M đang nằm ngủ (tư thế nằm nghiêng người sang trái) nên K nổi dục vọng. K sang nằm bên cạnh cháu M, dùng tay trái của mình kéo quần đùi cháu M xuống, rồi K tiếp tục dùng tay trái cầm dương vật đưa kề sát kẽ mông của cháu M (không đưa vào trong kẽ mông của cháu M), sốc lên sốc xuống khoảng 05, 06 lần thì xuất tinh văng vào mông của cháu M. K lấy áo lau người cháu M thì cháu M thức dậy nhưng không biết chuyện gì và đi vệ sinh cá nhân rồi lên nệm ngủ tiếp, còn K về lại vị trí nằm ban đầu nằm ngủ.

- Lần thứ hai: Khoảng 05 giờ ngày (không nhớ rõ ngày, cách lần thứ nhất khoảng 01 tháng) tháng 10/2021, bà Vũ Thị H đi tập thể dục, K thức dậy thấy cháu Vũ Lệ Tuyết M đang nằm ngủ (tư thế nằm ngửa) bên cạnh K. K dùng tay phải của mình cầm tay trái của cháu M và đưa tay cháu M cầm dương vật của K sốc cho đến khi xuất tinh. Lúc này, cháu M thức dậy và hét lên “Ba này”, K lấy áo lau tinh trùng rồi nói cháu M đi vệ sinh rồi lên nệm ngủ tiếp.

Đến ngày 05/01/2022, trong lúc cháu Vũ Lệ Tuyết M và cháu Nguyễn Vũ Tố U chơi đùa nằm chồng lên nhau thì bà Vũ Thị H hỏi cháu M, cháu M kể cho bà H nghe việc Nguyễn Duy K có hành vi xâm hại tình dục cháu M. Bà H lấy điện thoại di động ra lén ghi âm lời cháu M kể. Ngày 06/01/2022, Bà H đến Công an phường Hòa Q, quận Ngũ Hành S, TP. Đà Nẵng trình báo sự việc và giao nộp file ghi âm lời cháu M kể.

* Vật chứng và tài sản thu giữ của:

- Bà Vũ Thị H giao nộp: 01 đoạn ghi âm giọng nói dài 04 phút 48 giây 87, ghi lại đoạn hội thoại giữa 02 người đang nói chuyện (bà H và cháu M), kích cỡ: 5,20M (được ghi lại ngày 05/01/2022).

- Nguyễn Duy K: 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen, loại cảm ứng, IMEI 1: 866468036938738, IMEI 2: 866468036938720, bên ngoài có ốp lưng màu đen, có dòng chữ Mercedes Benz AMG.

* Giám định pháp y về tình dục đối với cháu Vũ Lệ Tuyết M: Tại bản kết luận Giám định pháp ý đối với trẻ em bị hoặc nghi bị xâm hại tình dục số 01/TDTE ngày 14/01/2022 của TT Pháp Y TP. Đà Nẵng kết luận:

1. Dấu hiệu chính (liệt kê tóm tắt): Theo thông tin từ cơ quan điều tra cung cấp: Cháu Vũ Lệ Tuyết M bị đối tượng Nguyễn Duy K thường xuyên có hành vi dùng dương vật và tay mình đưa vào bộ phận sinh dục của cháu M, sự việc được báo cho cơ quan chức năng giải quyết. Hiện tại cháu Vũ Lệ Tuyết M tỉnh, tiếp xúc được, hợp tác khám giám định; khám ngoài không phát hiện dấu hiệu do ngoại lực tác động. Kết quả khám chuyên khoa: Âm hộ, tầng sinh môn không có tổn thương. Màng trinh không thấy tổn thương.

2. Kết luận: Khám ngoài không phát hiện dấu hiệu do ngoại lực tác động. Tại bộ phận sinh dục: Âm hộ, tầng sinh môn không có tổn thương. Màng trinh không thấy tổn thương.

3. Đề nghị cho trẻ đi giám định Pháp y tâm thần (nếu cần thiết): Không.

* Giám định file ghi âm do bà H cung cấp:

- Tại Kết luận giám định số 2379/KL-KTHS ngày 27/5/2022 của Viện Khoa học hình sự Bộ công an kết luận: Không giám định được tiếng nói của Vũ Thị H, Vũ Thị Tuyết M do mẫu so sánh bị lỗi. Đã chuyển nội dung tiếng nói trong file mẫu cần giám định thành văn bản. (kèm theo kết luận giám định: 01 bản dịch nội dung ghi âm mẫu cần giám định gồm 03 trang A4).

- Tại Kết luận số 5067/KL-KTHS ngày 23/8/2022 của Viện Khoa học hình sự Bộ công an kết luận: Tiếng nói của người phụ nữ xưng “mẹ” trong file mẫu cần giám định (ký hiệu “Giọng nữ 1” trong bản dịch nội dung ghi âm mẫu cần giám định - kèm theo Kết luận giám định số 2379/KL-TKHS của Viện Khoa học hình sự Bộ công an) và tiếng nói của Vũ Thị Bích H trong mẫu so sánh là của cùng một người. Không giám định được tiếng nói của Vũ Thị Tuyết M do mẫu so sánh có chất lượng kém.

- Tại kết luận số 6838/KL-THHS ngày 10/11/2022 của Viện Khoa học hình sự Bộ công an kết luận: Tiếng nói trẻ em xưng “con” trong file mẫu cần giám định (ký hiệu “Giọng nữ 2” trong bản dịch nội dung ghi âm mẫu cần giám định - kèm theo Kết luận giám định số 2379/KL-KTHS của Viện Khoa học hình sự Bộ công an) và tiếng nói của Vũ Lệ Tuyết M trong mẫu so sánh là của cùng một người.

Với nội dung trên tại bản Cáo trạng số 19/CT-VKS-NHS, ngày 15/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Nguyễn Duy K về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” theo quy định tại các điểm b, d khoản 2 Điều 146 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm đã truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy K phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”.

Áp dụng điểm b, d khoản 2 Điều 146; điểm đ, k khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy K mức án từ 05 đến 06 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bà Vũ Thị H (mẹ ruột cháu M) và Nguyễn Duy K đã tự nguyện thỏa thuận về dân sự, bà H không có yêu cầu giải quyết nên không đề cập đến.

Về vật chứng: Tiếp tục tạm giữ để đảm bảo quy trữ thi hành án: 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen, số imel1: 866468036938738, số imel 2: 866468036938720, bên ngoài có ốp lưng màu đen, có dòng chữ Mercedes ben AMG của Nguyễn Duy K.

Đối với 01 đĩa DVD màu trắng chứa đoạn ghi âm hội thoại giữa bà Vũ Thị H và cháu Vũ Lệ Tuyết M vào khoảng 14 giờ 27 phút ngày 05/01/2022, thời lượng 04 phút 48 giây; 01 đĩa DVD đối tượng giám định hoàn trả; 02 đĩa DVD lưu trữ 02 đoạn video ghi nhận việc dựng lại hiện trường vào ngày 21/01/2022; 01 đĩa DVD lưu trữ đoạn video thực nghiệm điều tra ngày 18/01/2023; 01 đĩa DVD ghi âm lời khai của Nguyễn Duy K trong quá trình điều tra đề nghị tiếp tục lưu trữ theo hồ sơ.

Ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo K đã nêu lên luận cứ của mình và thống nhất về tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố. Tuy nhiên, do bị cáo kém hiểu biết về pháp luật nên đã phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về nhân thân bị cáo K có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự, sau khi vụ án xảy ra bị cáo và mẹ bị hại đã tự thỏa thuận bồi thường dân sự. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại cháu Vũ Lệ Tuyết M đã nêu lên luận cứ của mình và thống nhất về tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Những người tham gia phiên tòa không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trAh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Duy K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, xét lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu điều tra thu thập đầy đủ có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định như sau:

Trong khoảng thời gian từ tháng 9/2021 đến tháng 10/2021 (không nhớ rõ ngày), tại phòng ngủ trong nhà ở của gia đình Nguyễn Duy K tại tổ 12 phường Hòa Q, quận Ngũ Hành S, TP. Đà Nẵng, bị cáo K đã 02 lần có hành vi dâm ô đối với cháu Vũ Lệ Tuyết M là con riêng của vợ K là bà Vũ Thị H (tính đến thời điểm K phạm tội, cháu M được 06 tuổi).

[3] Hành vi trên của bị cáo Nguyễn Duy K đã phạm vào tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” được quy định tại điểm b, d khoản 2 Điều 146 Bộ luật hình sự, như cáo trạng số 19/CT-VKS-NHS ngày 15/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thì thấy:

Nguyễn Duy K là người chồng, người cha, lẽ ra bị cáo phải nêu gương về ý thức chấp hành pháp luật, nhưng với bản chất lối sống buông thả, sinh hoạt bừa bãi và để thỏa mãn nhu cầu sinh dục của bản thân nên khi bị cáo đã có hành vi dâm ô nhiều lần với cháu Vũ Lệ Tuyết M.

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Duy K là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã xâm phạm về tình dục, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và quá trình phát triển bình thường về tâm sinh lý cuả cháu Vũ Lệ Tuyết M, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, đi ngược lại thuần phong, đạo đức dân tộc người Việt Nam, gây hoang mang bất bình trong quần chúng nhân dân tại địa phương. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm tội vì động cơ đê hèn; phạm tội đối với người lệ thuộc mình về tinh thần là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm đ, k khoản 1 Điều 52; phạm tội hai lần trở lên và đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh là tình tiết định khung được quy định tại điểm b, d khoản 2 Điều 146 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt các bị cáo một hình phạt nghiêm minh, xét cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời răn đe các đối tượng khác có hành vi tương tự.

Song xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi vụ án xảy ra bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại là bà Vũ Thị H (mẹ của cháu M) đã thỏa thuận bồi thường dân sự và được bà Vũ Thị H xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa hôm nay, vị Luật sư bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về nhân thân của bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo. Xét luận cứ của vị luật sư phù hợp với một phần nhận định của Hội đồng xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét cần áp dụng điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một mức án phù hợp. Đối với yêu cầu áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là không có cơ sở để chấp nhận.

Tại phiên tòa vị Luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại cháu Vũ Lệ Tuyết M thống nhất về tội danh đã truy tố cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và mức hình phạt đối với bị cáo, qua đó yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Xét ý kiến của vị Luật sư là có cơ sở và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Ngoài ra, quá trình làm việc ban đầu với Công an phường Hòa Qúy, quận Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng, Nguyễn Duy K còn khai nhận: Vào khoảng 20 giờ (không nhớ rõ ngày) cuối tháng 9/2021 tại nhà ở của K thuộc tổ 12 phường Hòa Qúy, quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng, K có dùng ngón trỏ của tay trái móc vào bộ phận sinh dục của cháu Vũ Lệ Tuyết M. Tuy nhiên, quá trình điều tra, K không thừa nhận hành vi này; kết luận giám định pháp y về tình dục đối với cháu M không phát hiện có dấu hiệu do ngoại lực tác động; tại bộ phận sinh dục không có tổn thương, màng trinh không thấy tổn thương; Cơ quan Cảnh sát điều tả Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng không lấy được lời khai của cháu M về việc này. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng chưa đủ cơ sở xử lý trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Duy K về hành vi này là có căn cứ.

[4] Xét về trách nhiệm dân sự: Sau khi vụ án xảy ra bà Vũ Thị H (mẹ ruột cháu M) và Nguyễn Duy K đã tự nguyện thỏa thuận về dân sự, bà H không có yêu cầu giải quyết nên không đề cập đến.

[5] Xét về vật chứng: Đối 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen, số imel1: 866468036938738, số imel 2: 866468036938720, bên ngoài có ốp lưng màu đen, có dòng chữ Mercedes ben AMG của Nguyễn Duy K. Xét cần tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với 01 đĩa DVD màu trắng chứa đoạn ghi âm hội thoại giữa bà Vũ Thị H và cháu Vũ Lệ Tuyết M vào khoảng 14 giờ 27 phút ngày 05/01/2022, thời lượng 04 phút 48 giây; 01 đĩa DVD đối tượng giám định hoàn trả; 02 đĩa DVD lưu trữ 02 đoạn video ghi nhận việc dựng lại hiện trường vào ngày 21/01/2022; 01 đĩa DVD lưu trữ đoạn video thực nghiệm điều tra ngày 18/01/2023; 01 đĩa DVD ghi âm lời khai của Nguyễn Duy K, hiện đang lưu giữ tại hồ sơ vụ án nên không đề cập đến.

[6] Hội đồng xét xử xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn tại phiên tòa về căn cứ các điều luật áp dụng cũng như đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là có cơ sở nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi lượng hình.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, d khoản 2 Điều 146; điểm đ, k khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Duy K phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Duy K 05 (năm) 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, ngày 30/6/2022.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tiếp tục quy trữ 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen, số imel1: 866468036938738, số imel2: 866468036938720, bên ngoài có ốp lưng màu đen, có dòng chữ Mercedes Benz AMG được đựng trong bì thư bên ngoài có ghi dòng chữ “Đây là điện thoại di động của đối tượng Nguyễn Duy K, sinh năm 1988; HKTT: Tổ 12, phường Hòa Q, quận Ngũ Hành S, TP. Đà Nẵng, có chữ ký của Điều tra viên Võ Đình Sơn, các mép bì thư có đóng dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng để đảm bảo việc thi hành án.

Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16/3/2020.

Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 14/4/2023.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 27/2023/HS-ST về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

Số hiệu:27/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;