TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN H, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 330/2021/HS-ST NGÀY 23/12/2021 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN VÀ TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 23/12/2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 311/2021/TLST-HS ngày 12/11/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 330/2021/QĐXXST-HS ngày 09/12/2021 đối với bị cáo:
Bùi Khắc L - SN: 1997; Giới tính: Nam; HKTT: Xóm V, xã K, huyện K, tỉnh H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo, đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Con ông Bùi Văn D - SN 1973; con bà Bùi Thị K - SN 1976; Anh, chị, em ruột: có 3 người, bị cáo là lớn nhất; Vợ, con: Chưa có;
- Tiền án: Có 02 tiền án:
1. Bản án số 19/2017/HSST ngày 12/5/2017 của TAND huyện K, tỉnh H xử phạt 18 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 06/4/2018.
2. Bản án số 43/2019/ HSST ngày 17/5/2019 của TAND huyện H, thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản” (phạm tội ngày 22/12/2018). Chấp hành xong hình phạt ngày 17/6/2020.
*Nhân thân: Ngày 31/5/2014 bị Công an xã H, huyện K, tỉnh H xử phạt hành chính (cảnh cáo về hành vi Trộm cắp tài sản).
Bị cáo đầu thú, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/6/2021 đến nay tại Trại tạm giam số 2- Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Bùi Khắc L: Ông Dương Công H - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội. Có mặt.
Người bị hại:
- Chị Vũ Thị Thu T, sinh năm 1997; Trú tại: Số nhà 16, tổ 7, phường Phú L, quận H, Hà Nội, có mặt.
- Anh Nguyễn Ngọc Q, sinh năm 1989; Trú tại: Tổ 5, phường Y, quận H, Hà Nội, có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Anh Phạm Đức P, sinh năm 1992; Trú tại: Thôn C, xã Đ, huyện T, Hà Nội, xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bùi Khắc L - Sinh năm (SN): 1997, HKTT: xóm V, xã K, huyện K, tỉnh H là đối tượng không có nghề nghiệp ổn định.
Đầu tháng 6/2021, L từ H đến khu vực quận H, Hà Nội chơi và thỉnh thoảng có vào quán game “Việt Nga”, địa chỉ: số 203, tổ 5, phường P (nơi làm cũ) của anh Đào Cư V- SN: 1994, HKTT: tổ 21, phường P quận H ăn ngủ ở đó. Do không có tiền ăn tiêu, L đã nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản. Khoảng 17 giờ ngày 12/6/2021, L đi bộ lang thang ở khu vực tổ 7, phường P – quận H với mục đích xem ai có sơ hở thì trộm cắp. Khi qua nhà số 16, tổ 7, phường P, thì phát hiện phòng ngoài không có ai, L đi vào trong nhà, khi vào đến gần cửa phòng bếp thì thấy chị phụ nữ đang ngồi ở trong (xác định là chị Vũ Thị Thu T- SN: 1997- chủ nhà), chị T hỏi L là: “Mày muốn gì” thì L lao vào ôm và dọa hiếp chị T, chị T hét lên thì L dùng tay trái bịt miệng chị T lại và bị chị T cắn vào ngón tay. Lúc này tay phải của L lấy con dao ở trên bàn bếp (dạng dao gọt hoa quả) dí vào cổ chị T dọa: “Mày kêu lên là tao giết”, chị T nói: “Mày đâm tao đi”, sau cả hai giằng co dao nhưng chị T không lấy được. Trong lúc giằng co, chân chị T chạm vào vòi nước làm nước chảy ra sàn nhà và cả hai đều bị ngã, L đứng dậy trước để con dao lên trên bàn bếp. Sau L nhìn thấy và lấy luôn chiếc điện thoại di động iphone Xs max màu trắng của chị T để trên nóc tủ đút vào túi quần. Thấy vậy, chị T lao tới giằng co với L một lúc, sau L vùng dậy bỏ chạy thoát, quá trình giằng co chiếc áo ba lỗ màu đen của L đang mặc đã bị rách và L đã vứt đi. Sau khi lấy được điện thoại L chạy ra phố X, phường P – quận H rồi thuê xe ôm của ông Nguyễn Văn Ph - SN: 1962, trú tại: tổ 15 phường P – quận H chở đến số 224 thị trấn K, huyện T, Hà Nội, rồi L vào cửa hàng điện thoại của Phạm Đức P - SN: 1992, trú tại: xã Đ, huyện T, Hà Nội bán điện thoại vừa cướp được 4.500.000 đồng. Sau đó, L quay ra và được ông Ph chở về. Đến cửa hàng quần áo số 124 phố X, phường P- Hà Đông, L xuống xe vào mua quần áo (01 áo phông cộc tay màu đen; 01 quần đùi màu đen) để thay mặc, rồi đi về đường N, phường P, xuống xe và đến ngủ tại quán game của anh Đào Cư V.
Ngay sau khi bị cướp chiếc điện thoại, khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày 12/6/2021 chị Vũ Thị Thu T đã đến Công an phường P trình báo. Đến 21 giờ cùng ngày, anh Bùi Văn L ở tổ 7, phường P đã cung cấp cho cơ quan công an 01 USB ghi hình vụ việc.
Sau một thời gian ngắn truy xét, đến 19 giờ ngày 13/6/2021 Bùi Khắc L đã ra đầu thú tại Cơ quan CSĐT Công an quận H và khai nhận diễn biến vụ việc cướp ở trên.
Vật chứng thu giữ:
- 01 USB màu đen ghi một đoạn video ngày 12/6/2021 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu iphone Xs max màu trắng 64Gb, số imei 35727109919xxxx do anh Phạm Đức P giao nộp (bút lục 164, 165).
- 01 áo phông cộc tay màu đen, 01 quần sooc đen do Bùi Khắc L giao nộp (bút lục 126).
- 01 quần đùi màu đỏ đã qua sử dụng thu khi khám xét khẩn cấp chỗ ở của Bùi Khắc L tại số 203 N, tổ 5, phường P (bút lục 27).
- Khám nghiệm hiện trường đã thu giữ 01 con dao chuôi nhựa màu đen, tổng chiều dài của dao 28cm, bản dao rộng 3,5cm và 01 đôi dép tông màu đen quai nhựa, chiều dài mỗi chiếc 29cm (bút lục 42).
Tại biên bản và kết luận định giá tài sản số 179/KL-HĐĐGTS ngày 14/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND quận H (bút lục 31 đến 33), kết luận:
01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xs max màu trắng, dung lượng 64Gb, số imei 35727109919xxxx, đã qua sử dụng, thu được tang vật. Trị giá 8.600.000 đồng.
Mở rộng điều tra vụ án còn làm rõ: Ngày 02/9/2021 Bùi Khắc L còn thực hiện 01 vụ trộm cắp tài sản của anh Nguyễn Ngọc Q - SN: 1989, trú tại: ngách 33/12, tổ 5, phường Y , quận H như sau:
Khoảng 23 giờ ngày 01/9/2020, L lang thang đi bộ ở khu vực tổ 5, phường Y, quận H mục đích tìm ai có sơ hở thì trộm cắp. Đến khoảng 00 giờ 20 phút ngày 02/9/2020, khi đi qua nhà anh Q ở địa chỉ trên phát hiện thấy cửa nhà không khóa, anh Q đang ngủ trong nhà, L đã lẻn vào nhà tìm kiếm và lấy trộm được 02 điện thoại di động (gồm 01 điện thoại iphone 11 đang cắm sạc pin để trên bàn và 01 điện thoại iphone 6 để trong ba lô đặt cạnh bàn). 02 điện thoại trộm được L đã đem bán cho một cửa hàng điện thoại ở thị trấn X, huyện C, Hà Nội (không rõ chủ cửa hàng và địa chỉ) được 5.000.000 đồng ăn tiêu hết.
Ngày 14/6/2021, Cơ quan điều tra có văn bản yêu cầ u định giá tài sản bị trộm cắp là 02 điện thoại di động. Tại biên bản và kết luận định giá tài sản số 178/KL-HĐĐGTS ngày 14/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND quận H (bút lục 36 đến 38), kết luận:
- 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 11 pro dung lượng 256Gb màu xanh đã qua sử dụng, chưa thu được tang vật, trị giá 25.500.000 đồng.
- 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 dung lượng 64Gb, đã qua sử dụng, chưa thu được tang vật, trị giá 500.000 đồng.
Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã điều tra xác minh để truy tìm 02 điện thoại di động (01 iphone 11pro, dung lượng 256Gb màu xanh và 01 iphone 6, dung lượng 64Gb màu xám) của anh Nguyễn Ngọc Q, nhưng không xác định và thu hồi được.
Tại bản cáo trạng số 314/CT-VKS-HĐ ngày 11.11.2021, Viện kiểm sát nhân dân quận H truy tố bị cáo: Bùi Khắc L về tội:
- Cướp tài sản theo quy định tại điểm d,h khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự - Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự
Tại phiên tòa:
* Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng đã nêu và xin được giảm nhẹ hình phạt.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận H giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:
Áp dụng điểm d, h khoản 2 Điều 168; điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điêu 51; Điều 38; Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo từ 08 năm tù đến 08 năm 06 tháng tù về tội Cướp tài sản; 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt của cả hai tội từ 11 năm 06 tháng tù đến 12 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/6/2021.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào các Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy: 01 con dao chuôi nhựa màu đen, dài 28cm, bản lưỡi dao rộng 3,5cm; 01 đôi dép tông màu đen quai nhựa, chiều dài mỗi chiếc 29cm; 01 áo phông cộc tay màu đen; 01 quần sóc màu đen; 01 quần đùi màu đỏ.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 46, Điều 48 Bộ luật hình sự 2015: Buộc bị cáo Bùi Khắc L thanh toán trả cho anh Nguyễn Ngọc Q 26.000.000đ (Hai mươi sáu triệu đồng) và nộp 4.500.000đ tiền thu lời bất chính để sung quỹ nhà nước.
Người bào chữa cho bị cáo Bùi Khắc L trình bày quan điểm bào chữa: Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ cho bị cáo bởi bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, gia đình bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo, bị cáo đã đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Phân tích tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hoàn toàn đúng với các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2]. Do không có nghề nghiệp, không có tiền Bùi Khắc L thường xuyên đi lang thang ở các khu vực phường P, phường Y, quận H, thành phố Hà Nội để tìm có ai sơ hở thì vào trộm cắp. Khi bị phát hiện thì sử dụng phương tiện nguy hiểm (dao sắc, nhọn) để uy hiếp cướp lấy tài sản của người khác đem bán lấy tiền ăn tiêu. Cụ thể:
- Khoảng 17 giờ ngày 12/6/2021, tại nhà của chị Vũ Thị Thu T, địa chỉ: số 16, tổ 7, phường P, quận H, L đã vào nhà rồi dùng dao uy hiếp, đe dọa và lấy của chị T 01 điện thoại di động iphone Xs max, trị giá 8.600.000 đồng.
- Khoảng 00 giờ 20 phút ngày 02/9/2020 tại nhà anh Nguyễn Ngọc Q, địa chỉ: ngách 33/12, tổ 5, phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, L đã lén lút đột nhập vào nhà anh Q và tìm kiếm lấy trộm được 01 điện thoại di động (01 iphone 11 pro và 01 iphone 6), tổng trị giá 26.000.000 đồng.
Tổng số tiền bán 03 điện thoại trên là 9.500.000 đồng, Bùi Khắc L đã ăn tiêu hết.
[3]. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích, lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên hành vi Trộm cắp tài sản và Cướp tài sản của bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”; Ngoài ra, khi thực hiện hành vi Cướp tài sản, bị cáo còn sử dụng dao để uy hiếp tinh thần của người bị hại nên thuộc trường hợp “sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác”; tội phạm và hình phạt được quy định tại các điểm d, h khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự và điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Viện kiểm sát nhân dân quận Htruy tố và kết luận bị cáo về hành vi phạm tội của bị cáo theo tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tính mạng, sức khỏe và quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, gây mất trật tự trị an trên địa bàn; cần xét xử nghiêm minh vụ án nhằm giáo dục bị cáo và góp phần đấu tranh phòng ngừa chung.
Quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội; bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo nhận thức có phần hạn chế đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Do bị cáo phạm hai tội nên HĐXX quyết định hình phạt đối với từng tội sau đó tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chịu hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự.
[5]. Bị cáo có không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
[6]. Về trách nhiệm dân sự:
Người bị hại là chị Vũ Thị Thu T đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì khác nên không xét.
Người bị hại là anh Nguyễn Ngọc Q yêu cầu bị cáo bồi thường 02 điện thoại di động bị L chiếm đoạt theo quy định của pháp luật. Theo kết luận định giá tài sản ngày 14/6/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự kết luận 02 chiếc điện thoại di động (iphone 11 pro và 01 iphone 6), tổng trị giá 26.000.000 đồng. Do vậy, cần buộc bị cáo phải bồi thường trả anh Nguyễn Ngọc Q số tiền 26.000.000 đồng.
- Đối với Phạm Đức P là người mua chiếc điện thoại iphone Xs max của Bùi Khắc L nhưng anh Đức P không biết được đây là tài sản do L phạm tội mà có, CQĐT không xử lý hình sự là có căn cứ. Tại phiên tòa, bị cáo trình bầy số tiền 4.500.000 đồng đã nhận của anh Đức P bị cáo đã ăn tiêu hết, anh Đức P đề nghị tịch thu, sung quỹ nhà nước số tiền trên. HĐXX xét thấy, đây là tiền do phạm tội mà có nên cần buộc bị cáo nộp sung quỹ nhà nước là có căn cứ.
- Đối với ông Nguyễn Văn P (lái xe ôm) có hành vi chở Bùi Khắc L đi bán điện thoại cướp được. Quá trình chở Lđi, ông không biết L bán gì do đâu mà có, Cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ.
[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Khắc L phạm tội “Cướp tài sản” và “Trộm cắp tài sản”.
2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:
Áp dụng điểm d, h khoản 2 Điều 168; điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 khoản 2; Điều 38; Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo 08 (tám) năm tù về tội Cướp tài sản; 03 (ba) năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt của cả hai tội là 11 (Mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/6/2021.
3. Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào các Điều 46, Điều 47, 48 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu, tiêu hủy: 01 con dao chuôi nhựa màu đen, dài 28cm, bản lưỡi dao rộng 3,5cm; 01 đôi dép tông màu đen quai nhựa, chiều dài mỗi chiếc 29cm; 01 áo phông cộc tay màu đen; 01 quần sóc màu đen; 01 quần đùi màu đỏ.
(Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/11/2021 giữa cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Hvà chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông).
- Buộc bị cáo Bùi Khắc L nộp số tiền 4.500.000đ (Bốn triệu năm trăm ngàn đồng) tiền thu lời bất chính phát sinh từ hành vi phạm tội của bị cáo để sung vào ngân sách nhà nước.
- Buộc bị cáo Bùi Khắc L bồi thường trả cho anh Nguyễn Ngọc Q 26.000.000đ (Hai mươi sáu triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 Luật thi hành án dân sự. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Bùi Khắc L phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 1.300.000đ án phí dân sự.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án;
Người bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội cướp tài sản và trộm cắp tài sản số 330/2021/HS-ST
Số hiệu: | 330/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/12/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về