Bản án về tội cướp tài sản số 82/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 82/2020/HS-ST NGÀY 16/12/2020 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xét xử công khai, trọng điểm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 78/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

NDN, sinh ngày 06 tháng 10 năm 1989 tại thành phố Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn 4, xã A, huyện B, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông C và bà D; chưa có vợ; tiền sự: Không; tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2010/HS-ST ngày 31-8-2010 của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xử phạt 07 năm tù về tội Cướp tài sản; Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2017/HS-ST ngày 13-6-2017 của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; bị tạm giữ từ ngày 14-3-2020, chuyển tạm giam từ ngày 20-3-2020. Có mặt.

- Bị hại: Cháu BH, sinh ngày 02 tháng 5 năm 2007; nơi cư trú: Số 274/2 E, phường F, quận G, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Chị H, sinh năm 1987; cư trú: Số 14/53 Khu tập thể I, phường J, quận K, thành phố Hải Phòng là mẹ của cháu BH; và anh L, sinh năm 1984; địa chỉ: Nhà 14 lô 78 khu B1 đường M, quận N, thành phố Hải Phòng là bố của cháu BH. Chị H, có mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà O - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng, có mặt.

- Những người được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa:

Bà P, là giáo viên chủ nhiệm, đại diện Trường Trung học cơ sở F, quận G, thành phố Hải Phòng, có mặt.

Bà Q, có mặt. Ông C, bà D, bà R, bà S, đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 12-3-2020, NDN đến chơi game tại quán T, địa chỉ: Số 444 đường U, phường V, quận W, thành phố Hải Phòng. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, NDN ra về, gặp cháu BH tại khu vực cửa quán game. NDN thuê BH chở về Hồ X, BH đồng ý. BH dùng xe máy điện Biển kiểm soát 15MĐ1- X chở NDN. Trên đường đi, NDN đổi ý bảo BH chở sang nhà chị gái ở khu vực chợ Y. Đi tới khu vực ngã 3 Z và AA, NDN bảo dừng xe, rồi vào quán nước đổi tiền, đưa cho BH 50.000 đồng. Đến nơi, thấy nhà chị gái đóng cửa, NDN bảo BH chở đi tìm nhà nghỉ, rồi đưa tiếp cho BH 20.000 đồng. Khoảng 17 giờ 30 phút đến khu vực ngã tư AB, NDN nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của BH, nên NDN bảo BH đi vào ngõ dẫn tới nghĩa trang AC. Khi đi vào ngõ khoảng 200m, BH dừng xe. NDN đi xuống dùng tay phải rút chùm chìa khóa xe cất vào túi quần phía trước bên phải và cầm tay kéo BH vào bên trong khu vực nghĩa trang AC khoảng 5m. NDN nhặt dưới đất 01 xilanh giả vờ chích mũi kim vào tay trái nhằm mục đích để BH sợ, rồi tiếp tục kéo BH vào sâu bên trong khu vực nghĩa trang. NDN dơ xilanh về phía BH yêu cầu giao nộp tài sản trong túi quần bên trái gồm 01 thuốc lá điện tử và 01 lọ nhựa màu trắng. Sau khi BH để số tài sản này lên trên ngôi mộ bên cạnh. NDN tiếp tục dùng xilanh đe dọa lấy của BH 01 điện thoại Iphone 6S màu ghi; 01 ốp điện thoại; 02 USD;

01 đăng ký xe máy điện; số tiền 70.000 đồng và dùng tay chân đấm đá lấy của BH 01 dây chuyền bạc. Sau khi lấy tài sản của cháu BH, NDN lấy dây chun quần của BH trói 02 tay cháu BH ra sau và yêu cầu nằm úp mặt xuống đất. Sau đó NDN điều khiển xe máy điện Biển kiểm soát 15MĐ1- X bỏ đi. Thấy NDN bỏ đi, cháu BH tự cởi trói, rồi đến Công an phường Hùng Vương trình báo về sự việc bị NDN dùng vũ lực cướp tài sản như nội dung nêu trên.

Ngày 13-3-2020, NDN đến Công an phường Dư Hàng Kênh trình báo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung nêu trên và giao nộp 01 xe máy điện Biển kiểm soát 15MĐ1- X; 01 điện thoại di động Iphone 6S; 01 Vape; 01 lọ nhựa đã lấy của BH; 01 áo sơ mi dài tay màu đen, 01 quần bò màu đen, 01 đôi giày màu đen NDN sử dụng khi thực hiện hành vi cướp tài sản. Đối với số tiền 70.000 đồng NDN đã tiêu xài cá nhân hết; đối với 01 dây chuyền bạc; 01 tờ tiền mệnh giá 02 USD và 01 đăng ký xe máy điện BKS: 15MĐ1- X NDN đã đánh mất.

Tại Bản kết luận giám định ngày 23/3/2020 và ngày 22/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận G kết luận: 01 xe máy điện Biển kiểm soát 15MĐ1- X có giá trị 6.300.000 đồng; 01 điện thoại Iphone 6S có giá trị 3.000.000 đồng; tờ tiền 02 USD có giá trị 46.480 đồng; 01 thuốc lá điện tử và 01 dây chuyền bạc không định giá được; 01 lọ nhựa, 01 ốp điện thoại không có giá trị.

Tiến hành khám nghiệm hiện trường tại khu vực nghĩa trang AC thu giữ:

01 bơm kim tiêm, 01 sợi dây vải màu đen.

Về vật chứng: Đối với tài sản gồm 01 xe máy điện BKS: 15MĐ1- X; 01 điện thoại di động Iphone 6S; 01 Vape và 01 lọ nhựa màu trắng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho BH. Đối với 01 đăng ký xe máy điện; 01 sợi dây chuyền bạc và số tiền 70.000 đồng cùng tờ tiền 02 USD BH không yêu cầu bồi thường; hiện gia đình NDN đã bồi thường cho BH số tiền 4.000.000 đồng, đối với thương tích NDN gây ra BH không yêu cầu giám định thương tích. 01 bơm kim tiêm màu trắng (đã qua sử dụng), có nhiều vết bẩn, kích thước tổng dài 12cm, mũi kim tiêm dài 2,5cm, đường kính ống tiêm 01cm; 01 sợi dây vải màu đen dài 130cm tiết diện 0,3cm, 02 đầu dày học ống kim loại tròn màu xám dài 02cm; 01 áo sơ mi dài tay màu đen; 01 quần bò màu đen; 01 đôi giày màu đen không có dây buộc (kích thước mỗi chiếc giày 10x30cm).

Tại Cáo trạng số 68/CT-VKSHB ngày 06-10-2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng truy tố NDN về tội “Cướp tài sản“ theo điểm d, e, h khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự.

- Tại phiên toà, bị cáo trình bày, thừa nhận nội dung Cáo trạng truy tố đúng sự việc xảy ra, thừa nhận tội danh, tình tiết định khung hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bị cáo NDN đề nghị xem xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của mình, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà O - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng, người đại diện hợp pháp của bị hại là chị H và bị hại cháu BH thống nhất trình bày: Nhất trí tội danh, các tình tiết định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Trợ giúp viên pháp lý phân tích về nhân thân xấu, hành vi của bị cáo làm tê liệt tinh thần, phản kháng của cháu BH là trẻ em. Các cơ quan tiến hành tố tụng quận Hồng Bàng nhanh chóng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử án trọng điểm, kịp thời thu hồi trả lại cho bị hại tài sản bị chiếm đoạt. Bị hại đã nhận lại phần lớn tài sản bị chiếm đoạt, tiền bồi thường, không yêu cầu về dân sự, tâm lý của cháu BH ổn định bình thường. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường thiệt hại, đầu thú, bị hại cùng gia đình xin giảm nhẹ hình phạt. Do vậy, đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ mức hình phạt tù cho bị cáo. Trợ giúp viên pháp lý kiến nghị gia đình cùng nhà trường tiếp tục phối kết hợp chặt chẽ trong quản lý, theo dõi, giáo dục học sinh, phòng ngừa tội phạm xâm phạm trẻ em.

Đại diện Trường Trung học cơ sở F, quận G, thành phố Hải Phòng trình bày: Cháu BH bị chiếm đoạt tài sản trong thời gian được nghỉ học do dịch Covid-19 diễn biến phức tạp. Nhà trường thường xuyên quan tâm, theo dõi, khuyến nghị kịp thời các chủ trương, chính sách đối với tất cả học sinh trong trường. Cháu BH có hoàn cảnh gia đình thiệt thòi, bị xâm phạm ở độ tuổi trẻ em, nhưng đến nay tâm lý ổn định, bình thường. Đề nghị Tòa án căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lắng nghe đầy đủ ý kiến của những người tham gia tố tụng, trong đó có ý kiến của đại diện nhà trường, đại diện của bị hại là trẻ em để xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật. Đề nghị gia đình của cháu BH quan tâm hơn nữa trong việc phối hợp với nhà trường quản lý, nhắc nhở, theo dõi, bảo đảm cháu BH nói riêng, cũng như toàn thể học sinh của Trường Trung học cơ sở F không bị xâm phạm quyền trẻ em về tinh thần, sức khỏe, tài sản.

Đại diện Viện Kiểm sát phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa: Giữ nguyên quan điểm truy tố theo cáo trạng, đề nghị xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đó là: “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả”, “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, “Người phạm tội đầu thú”, bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đề nghị áp dụng điểm d, e, h khoản 2 Điều 168, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt: NDN từ 09 năm đến 09 năm 06 tháng tù về tội Cướp tài sản. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung. Về dân sự: Bị hại không yêu cầu, đề nghị Tòa án không xem xét giải quyết. Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng; 01 sợi dây vải màu đen, 01 áo sơ mi dài tay màu đen, 01 quần bò màu đen, 01 đôi giày màu đen. Buộc bị cáo NDN phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

Về thủ tục tố tụng:

[1] Về tài liệu, chứng cứ cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nêu trên. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về nhận định các tình tiết của vụ án:

[3] Về tội danh: Lời khai nhận tại phiên tòa của bị cáo, phù hợp với lời khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra, bản tường trình, đơn xin đầu thú, phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với vật chứng, biên bản tạm giữ đồ vật, đơn xin đầu thú, nội dung camera trích xuất, phù hợp với Biên bản thực nghiệm điều tra, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường, giấy chứng nhận thương tích, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản nhận dạng, bản ảnh nhận dạng và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nên đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 12-3-2020 tại khu vực Nghĩa trang AC, quận G, thành phố Hải Phòng, NDN đã dùng 01 xilanh đe dọa và dùng tay chân đấm đá, dùng dây vải trói tay chiếm đoạt của cháu BH gồm: 01 xe máy điện BKS: 15MĐ1- X; 01 điện thoại Iphone 6S; 01 tờ tiền mệnh giá 02 USD và số tiền 70.000 đồng tổng giá trị tài sản NDN chiếm đoạt của cháu BH là 9.416.480 đồng. Bởi vậy, đủ cơ sở kết luận: Bị cáo NDN đe dọa dùng vũ lực, rồi dùng vũ lực làm cho bị hại lâm vào tình trạng không thể chống cự, chiếm đoạt tài sản, nên NDN phạm tội “Cướp tài sản” theo Điều 168 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[4] Về tình tiết định khung hình phạt: NDN dùng 01 xilanh uy hiếp, đe dọa, dùng dây vải trói tay, rồi chiếm đoạt tài sản của cháu BH (khi bị phạm tội BH mới 12 tuổi 10 tháng 10 ngày), nên bị cáo phạm tình tiết sử dụng thủ đoạn nguy hiểm, phạm tội đối với người dưới 16 tuổi. Bị cáo NDN chấp hành Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2010/HS-ST ngày 31-8-2010 của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xử phạt 07 năm tù về tội Cướp tài sản, ra tù ngày 24-4-2015. Bị cáo chấp hành Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2017/HS-ST ngày 13-6-2017 của Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, ra tù ngày 03-4-2019. Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 70 của Bộ luật Hình sự, thì NDN đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội lần này do cố ý, nên bị cáo phạm tình tiết tái phạm nguy hiểm. Bởi vậy, NDN phạm các tình tiết định khung hình phạt theo điểm d, e , h khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[5] Hành vi của bị cáo NDN xâm phạm đến tài sản, sức khoẻ của người khác, trực tiếp xâm phạm đến trẻ em được Nhà nước đặc biệt coi trọng và quan tâm bảo vệ, nên cần phải xử lý nghiêm minh, bảo đảm sự nghiêm minh, kịp thời đấu tranh, phòng ngừa tội phạm xâm phạm trẻ em tại địa phương.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo NDN phạm tình tiết tái phạm nguy hiểm, phạm tội đối với người dưới 16 tuổi được quy định là các tình tiết định khung hình phạt, nên không phạm tình tiết nào theo Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: NDN đầu thú, giao nộp ngay các tài sản chiếm đoạt, báo gia đình bồi thường dân sự, khắc phục, trả tài sản kịp thời cho bị hại, khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại đều xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên bị cáo được hưởng các tình tiết theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự theo đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại là có căn cứ.

[8] Về quyết định hình phạt: NDN có nhân thân xấu, phạm ba tình tiết định khung hình phạt, không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhanh chóng trả lại tài sản chiếm đoạt, bồi thường kịp thời. Bị hại sớm ổn định tâm lý, tinh thần, sức khỏe sinh hoạt, học tập bình thường và cùng gia đình đều xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Trên cơ sở đánh giá toàn diện tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm, bảo đảm quyết định hình phạt phù hợp mục đích không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống. Cần xử phạt hình phạt tù theo mức đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát, bảo đảm tính chất, mức độ rất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và mục đích hình phạt đối với NDN.

[9] Về dân sự: Bị hại đã được bồi thường 4.000.000 đồng và bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu về bồi thường, nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[10] Về vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy công cụ phạm tội và các tài sản không còn giá trị theo đề nghị của bị cáo gồm: 01 bơm kim tiêm màu trắng (đã qua sử dụng), có nhiều vết bẩn, kích thước tổng dài 12cm, mũi kim tiêm dài 2,5cm, đường kính ống tiêm 01cm; 01 sợi dây vải màu đen dài 130cm tiết diện 0,3cm, 02 đầu dày học ống kim loại tròn màu xám dài 02cm; 01 áo sơ mi dài tay màu đen; 01 quần bò màu đen; 01 đôi giày màu đen không có dây buộc (kích thước mỗi chiếc giày 10x30cm).

[11] Kiến nghị Nhà trường tiếp tục phối hợp với gia đình của các học sinh trong việc giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật để học sinh tiếp cận, thực hiện hiệu quả nhiều kỹ năng cảnh giác, phòng tránh các tội phạm xâm phạm trẻ em được Nhà nước chú trọng quan tâm, bảo vệ.

[12] Về án phí: Bị cáo NDN phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d, e, h khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt: NDN 09 (chín) năm tù về tội “Cướp tài sản“. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 14 tháng 3 năm 2020.

Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 47 của Bộ luật Hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 bơm kim tiêm màu trắng (đã qua sử dụng), có nhiều vết bẩn, kích thước tổng dài 12cm, mũi kim tiêm dài 2,5cm, đường kính ống tiêm 01cm; 01 sợi dây vải màu đen dài 130cm tiết diện 0,3cm, 02 đầu dày học ống kim loại tròn màu xám dài 02cm; 01 áo sơ mi dài tay màu đen; 01 quần bò màu đen; 01 đôi giày màu đen không có dây buộc (kích thước mỗi chiếc giày 10x30cm) (Đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 12 tháng 10 năm 2020).

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, NDN phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 82/2020/HS-ST

Số hiệu:82/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;