TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẢO LỘC, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 73/2022/HS-ST NGÀY 28/07/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 62/2022/TLST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2022/QĐXXST- HS, ngày 07 tháng 7 năm 2022, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Duy L; sinh năm 1994; nơi sinh: Lâm Đồng; nơi đăng ký thường trú và cư trú: Thôn 1, xã LN, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: Lái xe; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Duy C (Nguyễn Văn C), sinh năm 1970 và bà Lê Thị Kim Y (Lê Thị Y), sinh năm 1970; cùng trú tại xã LN, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; bị cáo chung sống như vợ chồng với chị Nguyễn Thị Mộng T, sinh năm 1993; trú tại xã LN, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; có 01 người con, sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không.
Về nhân thân: Ngày 26/11/2015, bị Tòa án nhân dân huyện B xử phạt 05 năm tù về tội “giao cấu với trẻ em” theo khoản 2 Điều 115 Bộ luật hình sự (bản án số 53/2015/HSST), đã được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Bảo Lộc từ ngày 11/01/2022 cho đến nay (có mặt).
Bị hại: Chị Trần Thụy Mạc Sơn H, sinh năm 1980; trú tại: Tổ 20, phường LP, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).
Người có quyền lợi liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Duy C (Nguyễn Văn C), sinh năm 1970; trú tại Thôn 1, xã LN, huyện B, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).
Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị Mỹ L, sinh năm 2000; trú tại Thôn 1, xã LN, huyện B, tỉnh Lâm Đồng (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 11 giờ 20 phút, ngày 04/01/2022, Nguyễn Duy L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số 49H1-120.xx đến nghĩa địa Gioan, thuộc Tổ 18, phường LP, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng để thắp nhang cho mộ người quen. Khi đang thắp nhang thì Lập nhìn thấy chị Trần Thụy Mạc Sơn H cũng đang thắp nhang trong nghĩa địa, cách chỗ Lập khoảng 40 mét. Quan sát thấy chị H có mang một giỏ xách nên L nảy sinh ý định cướp tài sản của chị H. Để thực hiện ý định, L dắt xe mô tô đi đến gần chỗ chị H rồi mở cốp xe lấy ra 01 cây “đoản” bằng kim loại, dài 7,5cm, một đầu nhọn, một đầu hình lục giác đi đến dí vào cổ chị H đe dọa “mày la lên tao đâm chết, đưa cái giỏ xách cho tao”, đồng thời L dùng tay giật chiếc giỏ xách của chị H; chị H giằng lại làm chiếc giỏ đứt quai nhưng L vẫn giật được. Tiếp đó L nói “đưa điện thoại, dây chuyền cho tao”, chị H trả lời “điện thoại ở trong giỏ, không có dây chuyền”, rồi chị H la lớn “cướp, cướp”, thấy vậy L cầm giỏ xách bỏ chạy về phía xe mô tô đang dựng, lên xe tẩu thoát.
L chạy xe đến một bãi đất trống thuộc phường LP, thành phố B thì dừng lại, lấy giỏ xách ra kiểm tra phát hiện bên trong có số tiền 16.200.000đ, 01 điện thoại di động hiệu Iphone XR màu đỏ, 01 điện thoại hiệu Nokia 105 màu xanh. Sau đó L điều khiển xe đến nhà Trần Văn U, sinh năm 1991, trú tại Thôn 9, xã LN, huyện B rủ U đi mua ma túy sử dụng.
Khoảng 14 giờ cùng ngày, L chở U đến cửa hàng cầm đồ “Quang Vinh”, tại thị trấn LT, huyện B (do anh Trần Quang V làm chủ) để chuộc chiếc điện thoại của U mà L đã cầm từ trước hết 500.000đ. Tiếp đó, L đi đến gặp anh Phan Chí Tr, sinh năm 1992, trú tại Tổ 8, thị trấn LT, huyện B chuộc chiếc điện thoại hiệu Iphone của bà Lê Thị Kim Y (là mẹ của L), mà L đã cầm trước đó, hết 500.000 đồng. Ngoài ra L còn dùng số tiền 200.000 đồng để mua 02 sim điện thoại để sử dụng.
Trên đường đi về nhà, L đã giấu chiếc giỏ xách trong đó có chiếc điện thoại Iphone XR của chị H vào 01 gốc cây thần tài tại hàng rào một nhà dân, thuộc Thôn 8, xã LN, huyện B. Riêng chiếc điện thoại Nokia và số tiền còn lại thì L mang về nhà cất giấu. Đến ngày 05/01/2022, L đưa cho Nguyễn Thị Mỹ L (là em gái L) số tiền 6.000.000 đồng nhờ L giữ hộ, và đưa 500.000 đồng để L mua đồ ăn sáng. Sau đó L đã lấy lại số tiền 6.000.000 đồng từ L để tiêu xài, còn lại 700.000đ giao nộp cho Cơ quan điều tra.
Theo Kết luận định giá ngày 20/01/2022, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B thì 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh trị giá 150.000 đồng, 01 điện thoại Iphone XR màu đỏ, dung lượng 64GB trị giá 6.500.000 đồng, 01 túi xách màu đen, in chữ YATEHU trị giá 200.000 đồng; tổng cộng là 6.850.000 đồng.
Về vật chứng; Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tạm giữ, sau đó trả lại 01 giỏ xách, 01 điện thoại Iphone XR, 01 điện thoại Nokia 105 cho chị Trần Thụy Mạc Sơn H. Hiện đang tạm giữ số tiền 700.000đ; 01 áo thun màu trắng, có chữ Sativa; 01 quần Jean, màu đen; 01 thắt lưng màu nâu có chữ LV; 01 đôi dép xốp màu đen trắng; 01 mũ bảo hiểm màu xanh có chữ NGỌC KHIẾT BẢO LÂM; 01 đoản bằng kim loại, chiều dài 7,5cm, một đầu hình lục giác, một đầu nhọn; 01 áo khoác màu tím đen; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số: 49H1-120.xx và 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Duy L. Về trách nhiệm dân sự: Chị Trần Thụy Mạc Sơn H yêu cầu bị cáo L bồi thường số tiền là 16.200.000 đồng, nhưng bị cáo chưa bồi thường.
Tại bản Cáo trạng số 78/CT-VKSBL, ngày 22 tháng 6 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Nguyễn Duy L về tội “Cướp tài sản”, theo điểm d khoản 2 điều 168 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Cáo trạng, đề nghị áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Duy L từ 09 đến 10 năm tù. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 áo thun màu trắng, có chữ SATIVA; 01 quần Jean, màu đen; 01 thắt lưng màu nâu có chữ LV; 01 đôi dép xốp màu đen- trắng; 01 mũ bảo hiểm màu xanh có chữ NGỌC KHIẾT BẢO LÂM; 01 đoản bằng kim loại, dài 7,5cm, một đầu hình lục giác, một đầu nhọn; 01 áo khoác màu tím đen; trả cho chị Trần Thụy Mạc Sơn H số tiền 700.000 đồng; trả cho ông Nguyễn Duy C 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số: 49H1- 120.25; trả lại cho bị cáo L 01 chứng minh nhân dân. Về trách nhiệm dân sự:
Buộc bị cáo L bồi thường cho chị H số tiền 15.500.000 đồng. Bị cáo L khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nêu, bị cáo không thắc mắc, khiếu nại gì về nội dung Cáo trạng, thấy đúng với tội của mình, xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an thành phố B; của Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Duy L không có ý kiến thắc mắc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử thấy rằng, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng qui định của pháp luật
[2] Về căn cứ xác định tội: Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Duy L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại, nhân chứng, vật chứng thu giữ, biên bản xác định hiện trường, kết luận định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở khẳng định: Vào trưa ngày 04/01/2022, Nguyễn Duy L đi đến nghĩa địa Gioan, thuộc Tổ 18, phường LP, thành phố B để thắp nhang. Khi nhìn thấy chị Trần Thụy Mạc Sơn H cũng đang thắp nhang trong nghĩa địa, trên người có mang một giỏ xách thì L nảy sinh ý định chiếm đoạt. Sau đó L dắt xe mô tô đến gần chị H, mở cốp xe lấy 01 “đoản” kim loại, dài 7,5cm đi đến dí vào cổ, buộc chị H đưa chiếc giỏ xách cho L. Khi chị H đang hoảng sợ thì L đã dùng tay giật chiếc giỏ xách, chiếm đoạt của chị H các tài sản gồm: 01 điện thoại di động hiệu Iphone XR màu đỏ, 01 điện thoại di dộng hiệu Nokia 105 màu xanh và số tiền 16.200.000đ, tổng giá trị tài sản là 23.050.000 đồng. Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Duy L đã phạm vào tội “Cướp tài sản”, tội phạm và hình phạt được qui định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015. Do đó, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như Cáo trạng là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội: Bị cáo Nguyễn Duy L là người đã trưởng thành, có đầy đủ nhận thức; bị cáo biết rõ việc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc để chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi rất nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng chỉ vì muốn có tiền tiêu xài, thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, đe dọa đến tính mạng, sức khỏe của chị H mà còn làm mất trật tự trị an, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, vì vậy cần xét xử bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài, để giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội.
[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Duy L là người có nhân thân xấu, vào năm 2015 đã bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 05 năm tù về tội “giao cấu với trẻ em”, tuy đến nay đã được xóa án nhưng bị cáo không thấy đó là bài học mà tiếp tục phạm tội.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo, được áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tạm giữ sau đó trả lại 02 chiếc điện thoại, 01 giỏ xách cho chị Trần Thụy Mạc Sơn H nên không đề cập đến. Đối với các vật chứng đang tạm giữ gồm: 01 áo thun màu trắng, có chữ Sativa; 01 quần Jean, màu đen; 01 thắt lưng màu nâu có chữ LV; 01 đôi dép xốp màu đen trắng; 01 mũ bảo hiểm màu xanh có chữ NGỌC KHIẾT BẢO LÂM; 01 đoản bằng kim loại, dài 7,5cm, một đầu hình lục giác, một đầu nhọn;
01 áo khoác màu tím đen, xét thấy đây là vật không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển số 49H1-120.25 do bị cáo L sử dụng phạm tội. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Duy C, khi bị cáo L lấy xe trên sử dụng thì ông Cơ không biết; vì vậy cần trả lại chiếc xe trên cho ông Cơ là phù hợp. Đối với số tiền 700.000 đồng do bị cáo L giao nộp; xét thấy đây là một phần trong số tiền bị cáo L chiếm đoạt của chị H, vì vậy cần trả lại cho chị H là phù hợp. Đối với 01 chứng minh nhân dân tạm giữ của bị cáo thì trả lại cho bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, chị Trần Thụy Mạc Sơn H yêu cầu bị cáo L bồi thường số tiền 16.200.000 đồng, quá trình điều tra bị cáo đã nộp số tiền 700.000 đồng, còn lại 15.500.000 đồng buộc bị cáo bồi thường cho chị H.
[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố, bị cáo Nguyễn Duy L phạm tội “Cướp tài sản”.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015: Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy L 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/01/2022.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy: 01 áo thun màu trắng, có chữ Sativa; 01 quần Jean màu đen; 01 dây thắt lưng màu nâu có chữ LV; 01 đôi dép xốp màu đen trắng; 01 mũ bảo hiểm loại nửa đầu, màu xanh trắng, có chữ NGỌC KHIẾT BẢO LÂM; 01 cái đoản bằng kim loại, dài 7,5cm, một đầu lục giác, một đầu nhọn; 01 áo khoác màu tím đen. Trả lại cho ông Nguyễn Duy C (Nguyễn Văn Cơ) 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đen đỏ, biển số: 49H1-120.25. Trả cho chị Trần Thụy Mạc Sơn H số tiền 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng). Trả cho bị cáo L 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Duy L.
(Tang vật theo biên bản giao nhận ngày 27/6/2022; số tiền theo Ủy nhiệm chi ngày 27/6/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B với Chi cục thi hành án dân sự thành phố B).
3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 584 và 589 Bộ luật Dân sự, buộc bị cáo Nguyễn Duy L bồi thường cho chị Trần Thụy Mạc Sơn H số tiền 15.500.000 đồng (mười lăm triệu năm trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày 29/7/2022, nếu người có nghĩa vụ chậm trả tiền thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả, tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất qui định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về án phí, lệ phí tòa án, buộc bị cáo L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 775.000 đồng (bảy trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Đối với người vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội cướp tài sản số 73/2022/HS-ST
Số hiệu: | 73/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/07/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về