Bản án về tội cướp tài sản số 73/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH H

BẢN ÁN 73/2020/HS-ST NGÀY 29/12/2020 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Trong ngày 29 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 80/2020/TLST - HS ngày 27 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 72/2020/QĐXXST - HS ngày 15 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Trọng D, sinh năm 1995. Tên gọi khác: D B M; Sinh trú quán: thôn B, xã Y, huyện Y, tỉnh H. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 6/12. Nghề ngH: Lao động tự do. Họ và tên bố: Nguyễn Trọng V sinh năm 1967; Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị C sinh năm 1970; Gia đình có 02 anh em. Bị cáo là con lớn. Vợ, con: Chưa.

Tiền án: Tại bản án số 74/2015/HSST ngày 30/12/2015, Tòa án nhân dân huyện Y xử phạt 04 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm e, khoản 2 Điều 139 BLHS năm 1999. Chấp hành xong hình phạt ngày 27/01/2019.

Tiền sự: Không.

Nguyễn Trọng D bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/4/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên. Theo Lệnh trích xuất có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Anh Nguyễn Hoàng H, sinh năm 2000; (Vắng mặt) Địa chỉ: thôn Đ, xã H, huyện Y, tỉnh H.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1992; (Vắng mặt) 2. Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 2002; (Vắng mặt) Đều có địa chỉ: thôn H, xã H, huyện Y, tỉnh H.

3. Anh Nguyễn Văn L1, sinh năm 2000; (Vắng mặt) Địa chỉ: thôn N, xã H, huyện Y, tỉnh H.

* Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Đức S, sinh năm 1999; (Vắng mặt)

2. Bà Vũ Thị Th, sinh năm 1971; (Vắng mặt) Đều địa chỉ: thôn T, xã Y, huyện Y, tỉnh H

3. Ông Nguyễn Trọng V, sinh năm 1967; (Có mặt) Địa chỉ: thôn B, xã Y, huyện Y, tỉnh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 28/4/2020, tại thôn T, xã Y, huyện Y, Nguyễn Trọng D (tức D B M) đã có hành vi dùng 01 chiếc kéo dài 23cm lưỡi bằng kim loại, chuôi nhựa mầu xanh đe dọa và cướp của anh Nguyễn Hoàng H 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Anpha biển số 89B1 – xxxxx trị giá 15.000.000 đồng.

Đến khoảng 23 giờ ngày 29/4/2020, do biết mình bị Công an huyện Y triệu tập, nên D đã mang chiếc xe mô tô trên đến quán hát karaoke AE ở thôn T, xã Y, huyện Y giao xe cho anh Nguyễn Văn L1.

Ngày 30/4/2020, anh Nguyễn Văn L mang chiếc xe mô tô trên đến giao nộp cho Cơ quan điều tra Công an huyện Y. Đồng thời Nguyễn Trọng D (tức D B M) đến Công an huyện Y xin đầu thú và giao nộp 01 chiếc kéo dài 23cm bằng kim loại, chuôi bọc nhựa mầu xanh và 01 điện thoại di động Masstel mầu xanh, đen, tím, có lắp 02 sim thuê bao số 083761xxxx và 0886849237.

Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của D và của anh S, không phát hiện thu giữ gì. Tại Kết luận định giá số 18 ngày 05/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Y xác định: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Anpha biển số 89B1 – xxxxx có giá trị là 15.000.000 đồng.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y, Nguyễn Trọng D đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Ngoài ra, D còn trình bầy: Khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, D có liên lạc điện thoại thỏa thuận mua ma túy của Nguyễn Văn L1, nhưng L1 đã nhờ H và P mang ma túy đến cho D tại chỗ ở của anh S. Do không có tiền trả tiền mua ma túy, nên P không giao ma túy cho D. Kết quả điều tra chưa có căn cứ xử lý L1, H, P về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy. Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ có căn cứ xử lý sau.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Anpha biển số 89B1 – xxxxx theo anh Nguyễn Văn L trình bày mua lại tại một cửa hàng mua bán xe ở K, H vào khoảng năm 2018 nhưng không nhớ địa chỉ cụ thể. Kết quả tra cứu xác định đăng ký chiếc xe trên là anh Nguyễn Quang Đ. Hiện anh Đ không có mặt tại địa phương, Cơ quan điều tra chưa làm rõ được nguồn gốc chiếc xe trên. Do vậy Cơ quan điều tra Công an huyện Y sẽ tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Cáo trạng số 79/CT -VKS - YM ngày 27 tháng 11 năm 2020, của VKSND huyện Y truy tố bị cáo Nguyễn Trọng D (tức D B M) về tội Cướp tài sản, theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng D (tức D B M) về tội Cướp tài sản. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng D (tức D B M) từ 09 năm tù đến 10 năm tù. Ngoài ra đại diện VKSND huyện Y còn có quan điểm về hình phạt bổ sung, trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người làm chứng, vật chứng thu giữ được cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 23 giờ ngày 28/4/2020, tại thôn T, xã Y, huyện Y, Nguyễn Trọng D (tức D B M) đã đã có hành vi dùng 01 chiếc kéo dài 23cm lưỡi bằng kim loại, chuôi nhựa mầu xanh đe dọa và cướp của anh Nguyễn Hoàng H 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Anpha biển số 89B1 – xxxxx trị giá 15.000.000 đồng.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi dùng vũ lực đe dọa để chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng do động cơ tư lợi bị cáo vẫn thực hiện. Do vậy VKSND huyện Yên Mỹ truy tố bị cáo về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của bị cáo xâm hại đến quan hệ sở hữu tài sản được Luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an, mặt khác bị cáo đã bị xử phạt về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục phạm tội nên việc áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo là cần thiết.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo D có một tiền án chưa được xóa án tích nay lại phạm tội nên D phạm tội thuộc trường hợp tái phạm được quy định điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã đi đầu thú và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Sau khi cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng giáo dục bị cáo đồng thời cũng răn đe giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về hình phạt bổ sung: xét thấy hiện bị cáo không có nghề ngH, không có tài sản gì và là đối tượng nghiện ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc kéo dài 23cm bằng kim loại, chuôi bọc nhựa mầu xanh là vật bị cáo D dùng vào việc phạm tội và không có giá trị sử dụng nên tịch thu cho tiêu hủy.

Đối với chiếc điện thoại di động Masstel mầu xanh, đen, tím, có lắp sim thuê bao số 083761xxxx và 0886849237 là của D không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Trọng D (tức D B M) phạm tội Cướp tài sản.

[2]. Áp dụng: điểm d khoản 2 Điều 168, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[3]. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng D (tức D B M) 09 (chín) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 30/4/2020.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: không xem xét.

[6]. Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 - Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu cho tiêu hủy 01 chiếc kéo dài 23cm, lưỡi bằng kim loại, bản rộng nhất 02cm, chuôi nhựa.

Trả lại Nguyễn Trọng D (tức D B M) 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel mầu xanh, đen, tím, có lắp 02 sim.

Tình trạng vật chứng như Quyết định chuyển vật chứng số 57/QD-VKS-YM ngày 27/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y.

[7]. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Trọng D (tức D B M) phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[8]. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 73/2020/HS-ST

Số hiệu:73/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Mỹ - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;