TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 66/2023/HS-ST NGÀY 15/11/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 70/2023/TLST-HS ngày 03/10/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 343/2022/QĐXXST-HS 31/10/2023, đối với bị cáo:
Trần Đăng N; sinh năm 1991, tại tỉnh Đồng Nai; Đăng ký HKTT: Tổ 4, Ấp 6, xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông: Trần Đăng Đ và bà Nguyễn Thị Q; Vợ, con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/5/2023 đến nay (có mặt).
- Bị hại: anh Nguyễn Minh B, sinh năm 2000
Nơi cư trú: Số XX đường L, Ấp 2, phường T, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ ngày 19/5/2023, Trần Đăng N mang theo 01 con dao đi bộ trên đường Huỳnh Tấn Phát, theo hướng từ Quận 7 đến huyện Nhà Bè với mục đích cướp tài sản. Khi N đi đến trước địa chỉ số 21xx đường H, Ấp 3, xã P thì thấy anh Nguyễn Minh B (là tài xế công nghệ Gojek) điều khiển xe mô tô biển số 86L-34xx đang trả khách tại đây. Thấy vậy, N nói anh B chở đến trường THPT L, thuộc xã L, huyện Nhà Bè. Khi đến trường L, N yêu cầu rẽ vào hẻm 19xx Lê Văn Lương, khi vào hẻm khoảng 100m, thấy có bãi đất trống không có người qua lại, N nói anh B dừng lại. Khi anh B dừng xe, N lấy dao kề vào cổ anh B đồng thời tay trái giữ vai trái của anh B và yêu cầu anh B lấy hết tiền và điện thoại ra. Nghe vậy, anh B tắt máy xe và nói “Đừng giết em, em còn mẹ già” và lấy trong túi quần ra 283.000d đưa cho N, rồi N tiếp tục yêu cầu anh B đưa điện thoại cho N. Sau khi cướp được tài sản, N xuống xe cất dao vào túi quần rồi chạy bộ ra đường Lê Văn Lương. Thấy N bỏ chạy, anh B lên xe máy đuổi theo và tri hô “Cướp”. Nghe tiếng tri hô, anh Nguyễn Thanh L đang ở trong nhà đã hỗ trợ truy đuổi. Thời điểm này anh Nguyễn Văn T đang sửa xe tại số nhà 19xx đường Lê Văn Lương nghe tiếng tri hô “cuớp” nên cũng đã tham gia truy đuổi, N chạy đến chợ NĐ thì lấy số tiền và chiếc điện thoại vừa cướp cùng con dao vứt xuống đất sau đó tiếp tục chạy, khi N chạy đến ngã ba Lê Văn Lương – Ngô Quang Thắm thì bị anh L, anh T và anh B đuổi kịp, bắt giữ giao cho Công an xã N.
Tại kết luận định giá tài sản số 33 ngày 25/5/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Nhà Bè kết luận: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A02S, trị giá 1.500.000đ.
Tại bản Cáo trạng số 66/CT-VKS-NB ngày 02/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, truy tố bị cáo Trần Đăng N về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trình bày luận tội và tranh luận: Giữ nguyên cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Cướp tài sản”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Đăng N mức án từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại vắng mặt nhưng quá trình điều tra bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xêt xử không xét.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận.
Bị cáo nói lời sau cùng: xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nhà Bè, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố Tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, lời khai người bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ, được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 21h00” ngày 19/5/2023, tại bãi đất trống thuộc hẻm 19xx, đường Lê Văn Lương, Tổ xx, Ấp 4, xã NĐ, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, Trần Đăng N đã sử dụng con dao dài khoảng 26cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng, cán dao bằng nhựa màu đen kề vào phía sau cổ anh Nguyễn Minh B đe dọa để cướp của anh B 283.000đ và 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A02S, trị giá 1.500.000đ. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội“Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự.
[3] Xét tính chất vụ án và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tội phạm thuộc loại rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo. Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì có thái độ khai báo thành khẩn, bị cáo đã có thời gian tham gia quân ngũ.
[4] Về xử lý vật chứng: 01 con dao bị cáo sử dụng đe dọa anh B, là vật chứng của vụ án, 01 lưỡi dao (loại dao rọc giấy) bằng kim loại, kích thước 10,5x1,8cm, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho anh B, anh B không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.
[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: bị cáo Trần Đăng N 08 (tám) năm tù về tội “Cướp tài sản”.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/5/2023.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 con dao dài khoảng 26cm, lưỡi dao bằng kim loại, màu trắng, cán dao bằng nhựa màu đen, tình trạng đã qua sử dụng; 01 lưỡi dao (loại rọc giấy) bằng kim loại, kích thước 10,5x1,8cm, tình trạng đã qua sử dụng.
(Toàn bộ vật chứng có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh theo phiếu nhập kho số 2024-NK002 ngày 02/10/2023)
Về án phí: Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trần Đăng N phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội cướp tài sản số 66/2023/HS-ST
Số hiệu: | 66/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/11/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về