Bản án về tội cướp tài sản số 59/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 59/2023/HS-ST NGÀY 05/07/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 7 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 46/2023/HSST, ngày 25 tháng 4 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 142/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số ngày 08 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Thu B, sinh ngày 21 tháng 01 năm 1990; nơi sinh: Thành phố Q, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: 01 Phạm Ngọc Thảo, Khu vực 9, phường Đ, thành phố Q, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn B1, sinh năm: 1967 và bà Trần Thị Thanh B2, sinh năm: 1966; chồng: Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1990; con: 04 người, sinh năm 2011, 2017, 2019, 2023; tiền án: Ngày 15/4/2022, Toà án nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định xử phạt 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Bị cáo chưa chấp hành án do hoãn thi hành án; tiền sự: Không; nhân thân: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/5/2022 đến ngày 06/6/2022. Từ ngày 06/6/2022, Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Phạm Văn H3, sinh năm 1992, có mặt.

Trú tại: Số 565 Trần Phú, khu phố D, thị trấn D, huyện T, tỉnh Bình Định.

- Anh Nguyễn Thành H4, sinh năm 1992, có mặt Trú tại: Số 565 Trần Phú, khu phố D, thị trấn D, huyện T, tỉnh Bình Định.

-Nguyên đơn dân sự: Công ty Cổ phần D1.

Địa chỉ: 405/15 X, phường 24, quận B3, thành phố Hồ Chí M.

Người đại diện hợp pháp: Lương Duy H, sinh năm 1988- Tổng Giám đốc- Đại diện theo pháp luật, ông H ủy quyền cho bà Trần Thị Thiện M, sinh năm 1974; chức vụ: Giám đốc Kiểm soát nội bộ. Bà M ủy quyền cho anh Bùi Tấn B, sinh năm 1991, có mặt;

Trú tại: Số 565 Trần Phú, khu phố D, thị trấn D, huyện T, tỉnh Bình Định.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị Thanh B2, sinh năm 1966, có mặt.

Trú tại: 01 Phạm Ngọc Thảo, Khu vực 9, phường Đ, thành phố Q, tỉnh Bình Định.

Người làm chứng: Anh Võ Hà Nhơn Q1, sinh năm 1992, vắng mặt. Trú tại: Khu phố V 1, thị trấn D, huyện T, tỉnh Bình Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Thị Thu B đã từng làm việc tại Công ty Cổ phần D1 nên biết được Công ty có tài sản và B biết anh Phạm Văn H3 là người quản lý tài sản tại cửa hàng giao hàng nhanh ở số 559 Trần Phú, khu phố D, thị trấn D, huyện T, tỉnh Bình Định nên nảy sinh ý định tìm cách chiếm đoạt tài sản tại đây. Vì vậy vào khoảng 10 giờ ngày 20/5/2022, B điều khiển xe mô tô hiệu Dream biển kiểm soát 77F7-X của mẹ ruột là bà Trần Thị Thanh B2 đi đến quán cà phê Song Th thuộc khu phố D, thị trấn D, huyện T, tỉnh Bình Định, đối diện nơi anh H3 làm việc để theo dõi hoạt động của anh H3 cùng các nhân viên tại cửa hàng. Để thực hiện được hành vi chiếm đoạt tài sản, B đến 01 tiệm thuốc tây mua 01 vỉ gồm 10 viên thuốc ngủ, tán nhuyễn 03 viên thuốc cho vào 01 hộp cơm và 01 ly nước mía rồi gửi đến cửa hàng giao hàng nhanh cho H3 ăn uống rồi đi về nhà. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, B quay lại cửa hàng nhưng thấy đông người nên B bỏ về. Trên đường về, B mua 01 sim điện thoại khuyến mãi và nhắn tin làm quen với anh H3 nhằm theo dõi thời gian và thói quen sinh hoạt của anh H3 và các nhân viên ở cửa hàng. Khoảng 14 giờ cùng ngày, B tiếp tục quay lại cửa hàng thì thấy trên cửa sắt của cửa hàng có ổ khóa, trên ổ khóa có gắn chìa khóa nên B đã lén lấy chìa khóa mang đến tiệm sửa khóa của ông Đặng Khắc Quang, ở khu phố V2, thị trấn D, huyện T, tỉnh Bình Định để cắt cho mình 01 chìa khóa riêng, sau đó B quay lại gắn chìa khóa vào ổ khóa rồi đi về nhà. Khoảng 14 giờ ngày 21/5/2022, B mượn xe của chị ruột Nguyễn Thị Thu Tr có biển kiểm soát 77L1- X điều khiển đến cửa hàng thì thấy cửa hàng khóa cửa ngoài nên B đã sử dụng chìa khóa cắt trước đó mở cửa đột nhập vào trong tìm tài sản nhưng không tìm thấy gì và bị anh H3 phát hiện nên B điều khiển xe bỏ đi. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, B biết tại cửa hàng có anh H3 cùng 02 nhân viên nên B mua 03 ly nước ép rồi tán nhuyễn 07 viên thuốc ngủ bỏ vào cả 03 ly nước và nhờ anh Võ Hà Nhơn Q1, trú tại khu phố V 1, thị trấn D, huyện T, tỉnh Bình Định đem đến cửa hàng giao hàng nhanh của anh H3 nhằm mục đích cho những người này uống để B chiếm đoạt tài sản. Khi nhận 03 ly nước, anh H3 uống 01 ly, anh Nguyễn Thanh H5 là nhân viên cửa hàng đem 01 ly về cho vợ uống, còn lại 01 ly. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, B điều khiển xe mô tô 77F7-X đến cửa hàng, dùng chìa khóa đã cắt sẵn mở khóa cửa vào bên trong lấy một gói hàng bên trên có ghi laptop là 01 máy tính xách tay nhãn hiệu Dell precision 3510:17-6820HQ/8/256/FHD màu đen, ra trước cửa hàng cất giấu rồi quay lại vào trong đi lên tầng 2, vào phòng của anh Phạm Văn H3 và anh Nguyễn Thành H4 là nhân viên của cửa hàng đang ngủ lấy 01 B lô để trên đầu nệm và 02 điện thoại gồm: 01điện thoại di động Iphone 6 Plus, 01 điện thoại di động Redmi Poco M3. Khi lấy được tài sản, B đi xuống tầng trệt, lục trong B lô lấy số tiền 103.000.000 đồng rồi bỏ lại B lô dưới nền nhà. Sau đó, B tiếp tục đi đến bàn làm việc tại tầng trệt lấy trộm 01 máy tính xách tay hiệu Lenovo Ideapad S340-15IIL, màu bạc. Sau khi lấy tài sản xong, B thấy tại cửa hàng có camera nên đã lấy camera và rút thẻ nhớ vứt ở Bo rác trước cửa hàng và điều khiển xe về nhà. Trên đường về, B sợ điện thoại có liên kết với camera ở cửa hàng nên B đã vứt 02 điện thoại di động ở bãi đất trống gần quán cà phê Song Th. Sau đó, B đem camera lấy được cùng với trang phục mặc khi đi chiếm đoạt tài sản bỏ vào túi nhựa màu đen rồi vứt ở khu vực gần cầu chữ Y thuộc phường Đ, thành phố Q, tỉnh Bình Định. Số tiền chiếm đoạt, B khai nhận tiêu xài cá nhân và đánh bạc trên các trang website trên mạng hết.

Ngày 27/5/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T thu giữ gồm:

01máy tính xách tay nhãn hiệu Dell precision 3510:17-6820HQ8/256/FHD màu đen;

01 máy tính xách tay hiệu Lenovo IdeaPad S340-IIL, màu bạc, đã qua sử dụng; 01 xe mô tô gắn biển kiểm soát 77F7-X, màu nâu trắng, số máy: 150FM00037531; 01 mũ bảo hiểm màu đỏ, có chữ Nón Sơn phía sau; 01 mũ bảo hiểm màu trắng, chữ Ensure Gold phía sau; 01 ổ khóa gắn chìa khóa đều làm bằng kim loại hiệu Maxpro, trên thân ổ khóa có ghi chữ TOP SECURITY, trên càng khóa có một vết cắt khoảng 1/3 và chữ Hardened; 01 ổ khóa gắn 03 chìa khóa đều bằng kim loại hiệu LUXTOP ITALY TYPE, trên thân ổ khóa có ghi chữ SAFETY, trên càng khóa có chữ Hardened; 01 chai bằng nhựa bên trong có chứa khoảng 400ml nước ép trái cây màu xanh.

Theo Bản kết luận định giá tài sản số 151/KL-HĐ ngày 01/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện T kết luận: 01(một) máy tính xách tay nhãn hiệu Lenovo Ideapad S340-15IIL, màu bạc có giá trị thành tiền là 7.000.000đ, 01(một) máy tính xách tay nhãn hiệu Dell precision 3510:17- 6820HQ/8/256/FHD, màu đen có giá trị thành tiền là 6.000.000đ; 01 (một) điện thoại di dộng nhãn hiệu Redmi Poco M3, màu xanh dương có giá trị thành tiền là 1.700.000 đồng; 01 (một) điện thoại di dộng nhãn hiệu Iphone 6plus, màu bạc, dung lượng 64G có giá trị thành tiền là 1.600.000đ; 01 (một) camera nhãn hiệu ImouCue2-C22EP có giá trị thành tiền là 300.000đ; Tổng giá trị tài sản được định giá thành tiền là 16.600.000đ.

Theo bản kết luận số 749 ngày 16/6/2022 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: hỗn hợp chất lỏng màu xanh nhạt được chứa trong 01 (một) chai nhựa hình trụ tròn, dung tích 500ml, cao 22cm, đường kính lớn 6cm, nắp tròn đường kính 3cm có tìm thấy hoạt chất Rotundin (Tectrahydropalmatine), có tác dụng an thần, gây ngủ, giảm đau.

Ngày 25/8/2022, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định kết luận số khung, số máy nguyên thủy của xe mô tô kiểu dáng Dream màu nâu trắng, biển số 77F7-X như sau: số máy 150FM*00037531* là số máy nguyên thủy còn số khung bị cắt hàn không phục hồi số nguyên thủy.

Ngày 31/8/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại: 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu Dell precision 3510:17– 6820HQ8/256/FHD màu đen cho anh Bùi Tấn B, đại diện Công ty Cổ phần D1, 01 (một) máy tính xách tay hiệu Lenovo IdeaPad S340-IIL và 02 ổ khóa cho anh Phạm Văn H3.

Tại phiên tòa bị cáo B khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại phiên tòa Người bị hại: anh H3yêu cầu bồi thường 1.600.000đ, anh Huy yêu cầu bồi thường 1.700.000đ, anh Bùi Tấn B- đại diện Công ty yêu cầu bồi thường 103.300.000đ. Hiện Bị cáo chưa bồi thường cho các Bị hại.

Tại bản Cáo trạng số 44/CT-VKS-TP ngày 14 tháng 4 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Bình Định truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thu B về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thu B vể phạm tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo B ăn năn, hối cải và phạm tội lúc mang thai nên cần xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Bị cáo theo quy định điểm n, s khoản 1 Điều 51 của BLHS. Tuy nhiên trong thời gian Bị cáo chưa chấp hành xong bản án ngày 15-4-2022 của TAND Tp Q lại tiếp tục phạm tội mới nên Bị cáo đã tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu B với mức hình phạt từ 09 đến10 năm tù và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 BLHS tổng hợp hình phạt của hai bản án đối với bị cáo B.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc Bị cáo phải bồi thường cho Anh H31.600.000đ, cho anh Huy 1.700.000đ, cho Công ty 103.300.000đ.

Về vật chứng của vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 47 BLHS, Điều 106 của BLTTHS, tuyên tiêu hủy các tài sản gồm: 01 mũ bảo hiểm màu đỏ, có chữ Nón Sơn phía sau; 01 mũ bảo hiểm màu trắng, chữ Ensure Gold phía sau.Tuyên giao chiếc xe mô tô gắn biển kiểm soát 77F7-X, màu nâu trắng, số máy: 150FM*00037531* cho Công an huyện T xử lý theo thẩm quyền.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị Thu B, Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: xin Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho Bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, tỉnh Bình Định; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Bình Định; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Thị Thu B khai nhận nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của Bị hại, phù hợp với các vật chứng vụ án được thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đã thu thập được nên có đầy đủ căn cứ xác định như sau: Với mục đích muốn chiếm đoạt tài sản của người khác để có tiền tiêu xài cá nhân, đồng thời bị cáo Nguyễn Thị Thu B từng làm nhân viên của Công ty Cổ phần D1 nên biết rõ việc cửa hàng thu tiền hàng cuối ngày để tại cửa hàng đến sáng hôm sau mới nhập về Công ty. Nên từ ngày 20/5/2022 đến rạng sáng ngày 22/5/2022 tại cửa hàng thuộc Công ty Cổ phần D 1ở số 559 Trần Phú, khu phố D, thị trấn D, huyện T, tỉnh Bình Định, bị cáo B đã chuẩn bị cho việc cướp tài sản bằng cách tiếp cận cửa hàng lấy trộm ổ khóa chỉa khóa của cửa hàng móc ở ngoài cửa để cắt thành chìa khác xong bị cáo đã trả lại chìa, ổ khóa chỗ cũ, tiếp theo bị cáo B dùng sim điện thoại để liên hệ với anh Phạm Văn H3 để nắm tình hình, thời gian cụ thể của anh H3 và nhân viên. Sau đó bị cáo B lợi dụng sự cả tin của anh H3 để gửi nước uống có pha thuốc ngủ cho anh H3 cùng nhân viên, nhằm để anh H3 và nhân viên ngủ say để Bị cáo thực hiện hành vi cướp tài sản tại cửa hàng nói trên, tài sản bị cáo B cướp gồm tiền mặt là 103.000.000 đồng cùng 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu Lenovo Ideapad S340- 15IIL, 01 (một) máy tính xách tay nhãn hiệu Dell precision 3510, 01 (một) điện thoại di dộng nhãn hiệu Redmi Poco M3, 01 (một) điện thoại di dộng nhãn hiệu Iphone 6plus, 01 (một) camera nhãn hiệu ImouCue2-C22EP. Hành vi của bị cáo B đã đủ yếu tố cấu thành về tội “Cướp tài sản”.

[3] Xét tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Nguyễn Thị Thu B là người có khả năng nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì Bị cáo muốn có tiền tiêu xài đã thực hiện hành chiếm đoạt tài sản của người khác, cụ thể bị cáo B từng bước thực hiện hành vi phạm tội một cách tinh vi, tỉ mỉ, tính toán từ việc nắm tình hình của đối tượng cần tiếp cận, lấy trộm chìa khóa để cắt khóa, sau đó sử dụng sim điện thoại để liên lạc với anh H3 và thuốc ngủ có chứa chất Rotundin (Tectrahydropalmatine) có tác dụng an thần, gây ngủ, giảm đau cho vào 03 ly nước ép và nhờ anh Võ Hà Nhơn Q1 để mang đến cho anh H3 và nhân viên cửa hàng uống, nhằm để anh H3 và nhân viên ngủ say để bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Sau khi biết chắc anh H3 và nhân viên ngủ say, Bị cáo lẻn vào đã lấy tài sản tổng giá trị là 119.600.000 đồng. Hành vi của bị cáo B đã phạm vào tội “Cướp tài sản” được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015. Hành vi phạm tội mà Bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất an ninh, trật tự ở địa phương.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân người phạm tội. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lúc đang mang thai nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm n, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Bị cáo. Tuy nhiên bị cáo B có tiền án, cụ thể ngày 15/4/2022, Toà án nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định xử phạt 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Bị cáo chưa chấp hành án do hoãn thi hành án, nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, do đó cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để quyết định mức hình phạt tương ứng và tổng hợp hình phạt chung của hai bản án đối với bị cáo B theo Điều 56 BLHS.

[5] Xét về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Tại phiên toà hôm nay, anh Phạm Văn H3 yêu cầu Bị cáo bồi thường 1.600.000đ, anh Nguyễn Thành H4 yêu cầu Bị cáo bồi thường 1.700.000đ, anh Bùi Tấn B, đại diện Công ty yêu cầu Bị cáo bồi thường 103.300.000đ. Xét thấy đây là các khoản yêu cầu hợp lý và hiện bị cáo B chưa bồi thường cho các Bị hại. Do đó, Hội đồng xét xử buộc bị cáo B có trách nhiệm bồi thường cho Anh H31.600.000đ, cho anh Huy 1.700.000đ, bồi thường cho Công ty Cổ phần D1 103.300.000đ.

[6] Xét về hình phạt bổ sung: Bị cáo B không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Xét về xử lý vật chứng: Đối với 01 mũ bảo hiểm màu đỏ, có chữ Nón Sơn phía sau; 01 mũ bảo hiểm màu trắng, chữ Ensure Gold phía sau không còn giá trị sử dụng nên căn cứ vào quy định tại Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tuyên tịch thu và tiêu hủy. Chiếc xe mô tô gắn biển kiểm soát 77F7-X, màu nâu trắng, số máy: 150FM*00037531*, không có số khung Cơ quan Công an huyện T chưa xác định rõ nguồn gốc nên giao cho Công an huyện T xử lý theo thẩm quyền.

[8] Xét về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Thị Thu B phải chịu số tiền 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 5.980.000đ án phí dân sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

[9] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thu B phạm tội “Cướp tài sản ”.

Áp dụng vào điểm đ khoản 2 Điều 168; Điều 48, điểm n, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 589 của Bộ luật dân sự năm 2015, Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và các điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Bn thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Thu B 08 (Tám) năm tù. Tổng hợp hình phạt với Bản án số 103/2022/HSST, ngày 15/4/2022 của TAND Tp Q xử phạt 06(Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Buộc bị cáo B phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giam từ ngày 28/5/2022 đến ngày 06/6/2022.

2 . Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Buộc Bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho Anh Phạm Văn H3 1.600.000đ (Một triệu sáu trăm nghìn đồng), bồi thường cho anh Nguyễn Thành H4 1.700.000đ (Một triệu bảy trăm nghìn đồng), bồi thường cho Công ty Cổ phần D1 103.300.000đ (Một trăm lẻ B triệu B trăm nghìn đồng).

3. Xử lý vật chứng: Tuyên tịch thu và tiêu hủy 01 mũ bảo hiểm màu đỏ, có chữ Nón Sơn phía sau; 01 mũ bảo hiểm màu trắng, chữ Ensure Gold phía sau.

Giao chiếc xe mô tô gắn biển kiểm soát 77F7-X, màu nâu trắng, số máy: 150FM*00037531*, không có số khung cho Công an huyện T xứ lý theo thẩm quyền. Hiện vật chứng trên đang được Cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện T giữ theo biên bản giao nhận ngày 07/6/2023.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Thị Thu B phải chịu số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 5.980.000đ (Năm triệu chín trăm tám mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm để sung vào Ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Bị hại, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 05 tháng 7 năm 2023).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền gốc còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 59/2023/HS-ST

Số hiệu:59/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phước - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;