Bản án về tội cướp tài sản số 55/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 55/2021/HS-ST NGÀY 14/04/2021 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 43/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2021 và Thông báo về việc thay đổi ngày xét xử số: 06/2021/TB-TA ngày 09 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Trần Hà M; sinh ngày 25 tháng 3 năm 2000 tại tỉnh Tây Ninh; nơi đăng ký thường trú: 23/14Q ấp Thới Tứ 1, xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Minh T và bà Đặng Thị H; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 20/7/2020 (hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hóc Môn). Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Đỗ Thanh T; sinh ngày 27 tháng 7 năm 2004 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: 1/8 Nguyễn Văn Nghĩa, phường Tân Định, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 41/10A ấp Thới Tứ 2, xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam;

con bà Đỗ Thị Mộng C, không rõ họ tên cha; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo được tại ngoại điều tra. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng:

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Đỗ Thanh T: Đỗ Thị Mộng C, sinh năm 1980 - là mẹ ruột của bị cáo Đỗ Thanh T. (có mặt) Địa chỉ: 41/10A ấp Thới Tứ 2, xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người bào chữa cho bị cáo Đỗ Thanh T: Trần Đồng Minh Ngọc Kim Khánh - Trợ giúp viên pháp lý thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

Bị hại: Ông Nguyễn Toàn D, sinh năm 1992. (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Nhà không số, Tổ 69, ấp Trung Đông, xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Hà M là đối tượng nghiện ma túy, có quen biết với Đỗ Thanh T và Trần Thanh M do cả ba ở gần nhà nhau. Vào khoảng 21 giờ 00 phút ngày 01/6/2020, Thanh M rủ Hà M và T đi trộm cắp tài sản thì cả hai đồng ý. Sau đó, Thanh M giao xe gắn máy hiệu Wave, không rõ biển số, màu xanh - bạc cho Hà M chở Thanh M và T đi tìm tài sản để trộm cắp. Khi đến trước nhà không số, Tổ 69, ấp Trung Đông, Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn thì cả ba phát hiện cửa chính nhà khóa ngoài nhưng cửa cổng không khóa. Hà M dừng xe lại trước cổng nhà để Thanh M mở cửa cổng đi vào dùng xà beng nạy ổ khóa mở cửa chính ra. T thấy vậy đi vào nhà cùng với Thanh M tìm tài sản, còn Hà M đứng bên ngoài trông xe và cảnh giới. Lúc này, nhìn thấy ông Nguyễn Toàn D điều khiển xe gắn máy hiệu Wave về đến nhà, Hà M la lên cho đồng bọn biết rồi nhặt 01 cục gạch ống đe dọa, Thanh M nghe thấy nên đi ra dùng xà beng đe đọa, khống chế ông D và nói T đi vào nhà đẩy xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius, biển số: 66C1 - xxxxx, màu đen ra. Thanh M lấy chìa khóa xe từ chùm chìa khóa trên xe gắn máy hiệu Wave của ông D rồi nổ máy chạy đi, Hà M chở T tẩu thoát theo sau. Sau khi tẩu thoát, Thanh M nói với Hà M và T sẽ mang xe đến phía sau Trung tâm dạy nghề Hóc Môn bán cho tên N (không rõ lai lịch), còn Hà M chở T về nhà trước. Khi Hà M quay lại Trung Tâm dạy nghề Hóc Môn thì Thanh M nói đã bán được xe với giá 6.000.000 đồng. Thanh M giữ lại 2.000.000 đồng, đưa cho Hà M 4.000.000 đồng và nói với Hà M chia cho T 2.000.000 đồng. Hà M mua đồ ăn hết 100.000 đồng nên chỉ chia cho T 1.900.000 đồng. Số tiền được chia cả bọn đã tiêu xài hết.

Sau khi bị chiếm đoạt tài sản, ông Nguyễn Toàn D đến Công an xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn trình báo sự việc. Qua truy xét, ngày 20/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn đã bắt được Trần Hà M và Đỗ Thanh T. Tại Cơ quan điều tra, Trần Hà M và Đỗ Thanh T đã thừa nhận hành vi phạm tội như trên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 115/KL-HĐĐGTS ngày 18 tháng 6 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hóc Môn kết luận: 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius, biển số: 66C1 - xxxxx, màu đen trị giá 20.000.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số: 46/CT-VKS-HS ngày 08 tháng 3 năm 2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Trần Hà M và Đỗ Thanh T ra trước Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hố Chí Minh để xét xử về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân dân huyện Hóc Môn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét:

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168, điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Hà M từ 07 năm đến 08 năm tù.

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 91, khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đỗ Thanh T từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy đối với 01 áo màu xám có chữ Z FIVE ENERGY, 01 quần lửng màu xám hiệu Scotch & Soda Amterdam Couture, 01 áo dài tay màu xám, 01 quần lửng màu đen hiệu LEO và 01 xà beng hình chữ L, dài khoảng 80cm.

Tại phiên tòa, các bị cáo Trần Hà M và Đỗ Thanh T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không trình bày bổ sung và không có ý kiến tranh luận với nội dung truy tố của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Đỗ Thanh T là bà Đỗ Thị Mộng C không có ý kiến tranh luận với nội dung truy tố của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn.

Trợ giúp viên pháp lý bà Trần Đồng Minh Ngọc Kim Khánh bào chữa cho bị cáo Đỗ Thanh T xác định nội dung Cáo trạng truy tố bị cáo T phạm tội “Cướp tài sản” là phù hợp. Tuy nhiên, cần xem xét về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như sau: bị cáo T có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo có hoàn cảnh gia đình của bị cáo khó khăn, trình độ học vấn thấp, hiểu biết về pháp luật còn hạn chế nên bị rủ rê, xúi giục phạm tội; vai trò của bị cáo trong vụ án là thứ yếu, không trực tiếp dùng hung khí đe dọa bị hại; tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục thiệt hại cho bị hại; bị hại có đơn xin bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra, khi phạm tội, bị cáo thuộc trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, nên cần áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đối với bị cáo. Từ đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54, khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xem xét cho bị cáo T được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và dưới mức thấp nhất theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Các bị cáo nói lời nói sau cùng: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hóc Môn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, qua phần hỏi và tranh tụng công khai, các bị cáo đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, những người tham gia tố tụng khác và các chứng cứ khác đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án. Từ đó, có đủ cơ sở chứng minh vào tối ngày 01/6/2020, đối tượng Trần Thanh M rủ rê các bị cáo Trần Hà M và Đỗ Thanh T trộm cắp tài sản tại nhà không số, Tổ 69, ấp Trung Đông, xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi phát hiện bị hại ông Nguyễn Toàn D điều khiển xe gắn máy hiệu Wave trở về nhà thì bị cáo Trần Hà M đã nhặt 01 cục gạch ống cùng với Trần Thanh M dùng xà beng khống chế, đe dọa dùng vũ lực khiến cho bị hại không thể chống cự được để bị cáo Đỗ Thanh T chiếm đoạt 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius, biển số: 66C1 - xxxxx trị giá 20.000.000 đồng trong nhà bị hại rồi cả nhóm tẩu thoát.

[3] Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

Hành vi sử dụng cục gạch ống và xà beng của các bị cáo để khống chế, đe dọa dùng vũ lực đối với bị hại nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp “Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác” là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Do đó, Bản cáo trạng số: 46/CT-VKS-HS ngày 08 tháng 3 năm 2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo Trần Hà M và Đỗ Thanh T về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ và đúng pháp luật.

Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

… d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;” [4] Áp dụng điều luật được viện dẫn nêu trên cho thấy, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp rất nghiêm trọng với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Trong vụ án này, tuy các bị cáo không phải là người rủ rê, khởi xướng nhưng có vai trò ngang nhau, đều là người thực hành vì đã thực hiện tội phạm tích cực. Cụ thể: Trong lúc đối tượng Trần Thanh M và bị cáo T vào nhà bị hại tìm tài sản để trộm cắp, bị cáo Hà M đứng ở ngoài cảnh giới; khi phát hiện bị hại trở về đã nhặt 01 cục gạch ống cùng với Trần Thanh M cầm xà beng đe dọa, khống chế bị hại để bị cáo T chiếm đoạt tài sản; tiền bán tài sản được chia đều cho các bị cáo tiêu xài hết. Do đó, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cần xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo.

Bị cáo Trần Hà M không có tình tiết tăng nặng, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục thiệt hại cho bị hại tương ứng với phần của mình trong vụ án; bị hại có đơn xin bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo Đỗ Thanh T không có tình tiết tăng nặng, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục thiệt hại cho bị hại tương ứng với phần của mình trong vụ án; bị hại có đơn xin bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Ngoài ra, khi phạm tội, bị cáo T thuộc trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Vì vậy, cần áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đối với bị cáo.

Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius, biển số: 66C1 - xxxxx, màu đen, Cơ quan điều tra đã thông báo truy tìm nhưng không thu hồi được.

- Đối với 01 áo màu xám có chữ Z FIVE ENERGY, 01 quần lửng màu xám hiệu Scotch & Soda Amterdam Couture, 01 áo dài tay màu xám, 01 quần lửng màu đen hiệu LEO và 01 xà beng hình chữ L, dài khoảng 80cm, do không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị hại có yêu cầu bồi thường thiệt hại số tiền 20.000.000 đồng. Tại phiên tòa, bị hại vắng mặt nhưng căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện bị hại đã được các bị cáo mỗi người bồi thường số tiền 7.000.000 đồng, bị hại không yêu cầu các bị cáo tiếp tục bồi thường về dân sự và không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường số tiền còn lại là 6.000.000 đồng thay cho đối tượng Trần Thanh M, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Đối với đối tượng Trần Thanh M hiện đang bỏ trốn, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định truy nã, Quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, Quyết định tạm đình chỉ bị can và Quyết định tách vụ án để tiếp tục truy bắt, xử lý là phù hợp. Yêu cầu bồi thường về dân sự của bị hại đối với đối tượng Trần Thanh M sẽ được xem xét, giải quyết sau trong vụ án được tách.

[9] Đối với tên N do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, khi có kết quả sẽ xử lý sau là phù hợp.

[10] Về án phí: Các bị cáo Trần Hà M và Đỗ Thanh T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/ 2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Trần Hà M;

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 90, Điều 91, Điều 38, khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Đỗ Thanh T;

Tuyên bố các bị cáo Trần Hà M Đỗ Thanh T phạm tội “Cướp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Hà M 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, tạm giam 20/7/2020.

Xử phạt bị cáo Đỗ Thanh T 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

2. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tạm giam bị cáo Trần Hà M thời hạn 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy: 01 áo màu xám có chữ Z FIVE ENERGY, 01 quần lửng màu xám hiệu Scotch & Soda Amterdam Couture, 01 áo dài tay màu xám, 01 quần lửng màu đen hiệu LEO và 01 xà beng hình chữ L, dài khoảng 80cm.

Vật chứng của vụ án hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh đang quản lý theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 08 tháng 04 năm 2021.

4. Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 ngày 12 tháng 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Về án phí: Buộc các bị cáo Trần Hà M và Đỗ Thanh T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 55/2021/HS-ST

Số hiệu:55/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;