Bản án về tội cướp tài sản số 492/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 492/2021/HS-PT NGÀY 27/10/2021 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 27/10/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 450/2021/TLPT-HS ngày 24/5/2021 do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2021/HS-ST ngày 06/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái.

* Bị cáo bị kháng nghị:

Lường Văn A, tên gọi khác: Không, sinh ngày 21/8/1987 tại Yên Bái;

Nơi cư trú: C, xã C1, huyện C2, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn B sinh năm 1950 và bà Hà Thị B1 sinh năm 1952; vợ Ngân Thị B2 sinh năm 1986, có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2006, con nhỏ nhất sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2014 bị Tòa án nhân dân huyện C2, tỉnh Yên Bái xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 70/2014/HSST ngày 18/11/2014; ngày 04/5/2015 bị cáo chấp hành xong hình phạt; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 12/10/2020 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Trần B3, Luật sư Văn phòng Luật sư B4, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Yên Bái, có mặt.

* Đại diện hợp pháp cho bị hại: Ông Giàng A A1, sinh năm 1979; Trú tại: Bản C3, xã C4, huyện C5, tỉnh Yên Bái.

* Ngoài ra còn có: Một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không kháng cáo, không liên quan đến nội dung kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lường Văn A là đối tượng nghiện ma túy, khoảng 11 giờ ngày 08/10/2020 bị cáo đi bộ từ nhà mình ra Quốc lộ 32 mục đích đi mua ma túy để sử dụng; khi đi đến địa phận thuộc C, xã C1, huyện C2, tỉnh Yên Bái phát hiện thấy một chiếc xe máy đang dựng ở lề đường bên phải, Lường Văn A đã nảy sinh ý định cướp tài sản; bị cáo đeo khẩu trang và đội mũ bảo hiểm tiến gần đến chỗ xe máy, phát hiện thấy anh Giàng A A2 đang đứng ở bãi cỏ quay lưng ra phía đường; A liền lấy con dao bấm (mang theo sẵn) bấm bật lưỡi dao ra cầm ở tay phải đi đến chỗ anh A2 kề dao vào cổ anh A2 khống chế yêu cầu anh A2 đưa tiền; anh A2 lấy từ trong túi quần ra 130.000đ đưa lên trước mặt A; A dùng tay trái cầm tiền đút vào túi quần, lợi dụng lúc A lỏng tay, anh A2 đã chống cự dùng hai tay nắm lấy tay phải của A để giằng giật lấy con dao; trong lúc giằng co con dao đã đâm trúng vào đầu gối chân trái của A; sau đó A giật lại được con dao và đâm một nhát trúng vào vùng bụng anh A2 và tiếp tục yêu cầu anh A2 còn tiền nữa không để đưa cho bị cáo, khi anh A2 trả lời không còn tiền thì A dùng dao đâm liên tiếp nhiều nhát trúng vào vùng ngực, cổ, bụng anh A2 cho đến khi anh A2 gục ngã bị cáo mới dừng lại. Khi anh A2 ngã gục xuống đất thấy chiếc điện thoại di động của anh A2 rơi bên cạnh, bị cáo đã lấy cất vào túi quần; tiếp đó bị cáo dùng dao cắt dây quai đeo ba lô anh A2 đang đeo trên lưng để lấy ba lô và xe máy Honda biển kiểm soát 21K-380.12 của anh A2 bỏ trốn. Do bị cáo bị thương nên trên đường đi bị cáo ghé vào cửa hàng thuốc tân dược của chị Bùi Thanh B5 ở tổ 1, thị trấn Nông trường Liên Sơn, huyện C2 mua băng gạc y tế đem lên đồi chè tự băng bó vết thương và vứt lại chiếc quần dài bị cáo đang mặc; sau đó bị cáo điều khiển xe máy đi xuống thị xã C6 cầm cố chiếc điện thoại di động tại cửa hàng của anh Nguyễn Văn B6 được 700.000đ, bị cáo đi đến khu vực bến xe thị xã C6 mua ma túy để sử dụng; sau đó tiếp tục điều khiển xe máy đi sang tỉnh Thái Nguyên để trốn; khi đi đến địa phận huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ bị cáo đã vứt con dao gây án ở dọc đường và mang xe máy đến hiệu cầm đồ của anh Nguyễn Xuân B7 ở thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên cầm cố được 7.000.000đ rồi vứt bỏ ba lô tư trang của anh A2 tại đây. Ngày 09/10/2020, bị cáo đi xuống Hà Nội mục đích để tìm vợ, nhưng không tìm được, nên bị cáo quay lại thị xã Phổ Yên, đến khoảng 17 giờ ngày 11/10/2020 bị cáo đã uống thuốc sâu và bị va quyệt giao thông bị thương, nên được đưa đến cấp cứu tại Bệnh viện Quân Y 91 Bộ Quốc phòng; sau đó bị cáo bị bắt giữ.

Sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám nghiệm hiện trường thu giữ được một số dấu vết, vật dụng...

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 78/TT-PC09 ngày 20/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái đối với Giàng A A2 kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Trên cơ thể có nhiều vết thương rách da, rách thủng da vùng mặt, cổ, ngực, bụng, thắt lưng phải, tay trái, bờ mép sắc gọn; một số vết xây xát da, bầm tím vùng đầu, mặt, cổ, hai tay. Dấu hiệu mất máu cấp; vết thương vùng cổ làm đứt cơ, động mạch, tĩnh mạch cảnh bên trái.

Các vết thương thấu ngực làm đứt sụn sườn số 6 bên trái, số 6 bên phải và khe liên sườn 2, 3 bên phải. Thùy phổi phải có vết thương xuyên thấu nhu mô phổi; khoang ngực chứa nhiều máu không đông và máu đông.

Các vết thương thấu bụng làm rách mô gan, thận phải, thủng ruột, rách mạc nối, mạc treo ruột; trong ổ bụng chứa nhiều máu đông.

Trong dạ dày chứa nhiều thức ăn chưa nhuyễn, còn rõ dạng sợi bún.

2. Cơ chế hình thành dấu vết thương tích: Các vết thương rách da, rách thủng da vùng mặt, ngực, bụng, thắt lưng phải, tay trái do vật sắc nhọn tác động một lực mạnh gây đứt động mạch, tĩnh mạch cảnh trái, sụn sườn 2 bên, rách nhu phổi, gan, thận phải, thủng ruột rách mạc nối, mạc treo ruột; các vết bầm tím, xây xát da vùng đầu, cổ, mặt, hai tay do va chạm với vật tày gây nên.

3. Nguyên nhân chết: Mất máu cấp do đa vết thương vùng cổ, ngực, bụng, thắt lưng phải.

Tại Bản kết luận giám định pháp y sinh học (giám định gen) số 274/GĐSH ngày 09/11/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái kết luận: Dấu vết trên các mẫu ký hiệu M1 (chiếc khẩu trang một mặt màu xanh), M2 (chiếc khẩu trang y tế màu đen) là máu người.

Tại Bản kết luận giám định số 8939/C09-TT3, ngày 11/01/2021 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Trên chiếc khẩu trang dạng khẩu trang y tế màu đen và chiếc khẩu trang dạng khẩu tang y tế màu xanh gửi giám định đều bám dính máu người. Kiểu gen (ADN) phân tích được từ vị trí các vết máu người này đều bị lẫn, trong đó chỉ đủ cơ sở xác định có kiểu gen của Giàng A A2, không đủ cơ sở xác định kiểu gen của người nào khác còn lại do chất lượng ADN kém.

Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 3415, ngày 03/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Yên Bái kết luận:

- Giá trị chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen xám, số IMEL1:8691830075212121; IMEL1:869183037521204 có giá trị 1.551.700đ.

- Giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, màu sơn đen trắng, loại WAVE RSX, biển kiểm soát 21K1-380.12, số máy JA38E0423407, số khung 3822JY010220 có giá trị 14.333.300đ.

Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2021/HS-ST, ngày 06/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Lường Văn A phạm tội “Giết người” và tội “Cướp tài sản”; áp dụng điểm e khoản 1 Điều 123; khoản 1 Điều 168 điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 39; điểm c khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lường Văn A tù chung thân về tội “Giết người” và 05 năm tù về tội “Cướp tài sản”; tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 12/10/2020.

Ngày 20/4/2021 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái ban hành Kháng nghị số 03/QĐ-VKS-P2 kháng nghị phần hình phạt đối với bị cáo; đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo Lường Văn A lên mức tử hình.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội giữ nguyên nội dung kháng nghị.

- Bị cáo Lường Văn A trình bày: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Bản án sơ thẩm đã mô tả và quy kết; hiện bị cáo rất ân hận nên đã tác động với gia đình bồi thường được số tiền 20.000.000đ trước khi xét xử sơ thẩm, sau khi xét xử sơ thẩm tiếp tục tác động gia đình để nộp tiền án phí sơ thẩm, cũng như nộp 20.000.000đ tại cơ quan Thi hành án để bồi thường cho gia đình bị hại, đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay gia đình bị cáo trực tiếp bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 10.000.000đ, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giữ nguyên mức hình phạt như bản án sơ thẩm.

- Ông Giàng A A1 đại diện hợp pháp cho bị hại trình bày: Ông xác nhận trước khi xử sơ thẩm gia đình bị cáo đã bồi thường cho gia đình ông số tiền 20.000.000đ, tại phiên tòa phúc thẩm gia đình bị cáo A đã trực tiếp bồi thường cho gia đình ông số tiền 10.000.000đ; bị cáo đã thể hiện sự ân hận, nên đề nghị giữ nguyên mức hình phạt như bản án sơ thẩm.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Sau khi phân tích, đánh giá hành vi phạm tội thấy cấp sơ thẩm xét xử, quy kết bị cáo Lường Văn A về tội “Giết người” và “Cướp tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo với mức hình phạt tù chung thân cho cả hai tội là chưa phù hợp. Bởi vì, bị cáo A có nhân thân xấu; ngày 08/10/2020 bị cáo mang theo dao nhọn sẵn trong người, khi gặp anh A2 bị cáo đã đâm nhiều nhát vào những vùng trọng yếu trên cơ thể của bị hại, nhằm mục đích tước đoạt tính mạng của anh A2, sau đó chiếm đoạt tài sản; hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm, thể hiện tính côn đồ, coi thường pháp luật, cố tình thực hiện tội phạm đến cùng, nên với mức hình phạt như bản án sơ thẩm chưa đủ tính răn đe, giáo dục, mà cần phải loại bỏ vĩnh viễn bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mới phù hợp. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái, sửa bản án sơ thẩm tăng hình phạt đối với bị cáo lên mức tử hình.

* Người bào chữa cho bị cáo Lường Văn A trình bày quan điểm: Không tranh luận gì về tội danh đối với bị cáo; chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến bị cáo là người dân tộc thiểu số, chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội đã tự thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; đã tác động với gia đình bồi thường một phần trách nhiệm dân sự cho gia đình bị hại; bố bị cáo là người có công được thưởng huân chương kháng chiến; tại phiên tòa phúc thẩm thể hiện gia đình bị cáo tiếp tục bồi thường cho gia đình bị hại 10.000.000đ và nộp 30.750.000đ là tiền án phí sơ thẩm, tiền bồi thường tiếp cho gia đình bị hại. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên mức hình phạt như bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lường Văn A khai nhận toàn bộ hình vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm mô tả và đã quy kết; lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với lời khai của những người làm chứng, người liên quan; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án;

đặc biệt là kết quả khám nghiệm hiện trường, các kết luận giám định. Vì vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 11 giờ ngày 08/10/2020 bị cáo Lường Văn A có ý định cướp tài sản, nên đã dùng dao đe dọa, tấn công, đâm nhiều nhát vào người bị hại là anh Giàng A A2, dẫn đến anh A2 tử vong; sau khi giết anh A2 bị cáo đã chiếm đoạt toàn bộ tài sản của anh A2, gồm điện thoại, xe máy và một số đồ dùng, vật dụng tư trang khác trị giá 15.885.000đ. Hành vi đó của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” và “Cướp tài sản”; cấp sơ thẩm đã quy kết, xét xử bị cáo về hai tội danh nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật, bị cáo không bị oan.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp tước đoạt tính mạng của người khác, cũng như xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, còn gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội, gây hoang mang, bất bình trong quần chúng nhân dân; bị cáo Lường Văn A sau khi giết chết anh A2 đã chiếm đoạt tài sản của bị hại, nên cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm e khoản 1 Điều 123; khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo Lường Văn A là đối tượng nghiện ma túy, ngày 08/10/2020 bị cáo từ nhà đi mục đích để mua ma túy sử dụng; khi gặp anh Giàng A A2 bị cáo đã dùng dao để khống chế anh A2 cướp tài sản; mặc dù anh A2 đã đưa tiền cho bị cáo, nhưng bị cáo vẫn chưa buông tha, quá trình khống chế anh A2 đã chống cự lại dẫn đến giằng co nhau, nên con dao đã đâm trúng đùi của bị cáo, sau đó bị cáo đã giằng lại được con dao và đâm anh A2 nhiều nhát, đến khi anh A2 gục xuống bị cáo đã chiếm đoạt toàn bộ tài sản là điện thoại, xe máy sau đó bỏ mặc bị hại và tẩu thoát; bản thân bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu, đã từng bị xét xử và xử phạt mức hình phạt tù nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học, tu chí làm ăn lương thiện mà vẫn tiếp tục nghiện ngập. Tuy khi xét xử, cấp sơ thẩm có áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ như: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường được số tiền 20.000.000đ cho đại diện gia đình bị hại; bố bị cáo là người có công được tặng huân chương kháng chiến là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; nhưng với số tiền gia đình bị cáo đã bồi thường là 20.000.000đ so với số tiền 224.000.000đ bị cáo phải bồi thường cho gia đình bị hại là quá ít. Cấp sơ thẩm đã đánh giá không đúng tính chất đặc biệt nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo, nên xử phạt bị cáo mức án tù chung thân cho tội “Giết người” là nương nhẹ, không tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm Luật sư bào chữa cho bị cáo xuất trình biên lai thể hiện, gia đình bị cáo đã nộp số tiền 10.750.000đ tiền án phí sơ thẩm và 20.000.000đ tiền bồi thường tiếp cho gia đình bị hại. Ngoài ra, đại diện hợp pháp cho bị hại xác nhận, tại phiên tòa phúc thẩm gia đình bị cáo tiếp tục bồi thường trực tiếp cho gia đình bị hại số tiền 10.000.000đ, và đề nghị giữ nguyên mức hình phạt như bản án sơ thẩm. Đây là những tình tiết mới tại cấp phúc thẩm, nhưng không đáng kể so với hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng của bị cáo, nên mức hình phạt tù chung thân về tội “Giết người” đối với bị cáo là chưa phù hợp. Do đó, Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái, cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa phúc thẩm có căn cứ để chấp nhận.

[4] Tại phiên tòa có tài liệu thể hiện gia đình bị cáo đã nộp thay bị cáo số tiền 30.750.000đ là tiền án phí sơ thẩm và tiền bồi thường cho gia đình bị hại, cũng như đại diện gia đình bị hại xác nhận tại phiên tòa phúc thẩm gia đình bị cáo tiếp tục bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 10.000.000đ, nên cần ghi nhận cho bị cáo.

[5] Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2021/HS-ST ngày 06/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái; áp dụng điểm e khoản 1 Điều 123; khoản 1 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 40; Điều 55 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lường Văn A tử hình về tội “Giết người” và 05 năm tù về tội “Cướp tài sản”; tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là tử hình. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, bị cáo Lường Văn A có quyền làm đơn gửi Chủ tịch Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xin ân giảm án tử hình, tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Xác nhận gia đình bị cáo đã trực tiếp bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 10.000.000đ, nộp số tiền 20.000.000đ để bồi thường cho gia đình bị hại; cũng như đã nộp đủ số tiền án phí dân sự và hình sự sơ thẩm là 10.750.000đ theo các biên lai thu tiền số 0001502, 0001503 cùng ngày 26/10/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Yên Bái.

Về án phí: Bị cáo Lường Văn A không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 07/2021/HS-ST ngày 07/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 492/2021/HS-PT

Số hiệu:492/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;