Bản án về tội cướp tài sản số 15/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN,  TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 15/2022/HS-ST NGÀY 06/05/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 06/05/2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 13/2022/HSST ngày 08 tháng 04 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2022/QĐXXST- HS ngày 26 tháng 04 năm 2022 đối với bị cáo:

Bùi Thành C, sinh ngày 01 tháng 03 năm 1996 tại xã Q, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; Nơi cư trú: xóm B, xã Q, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Văn T, sinh năm 1959 và bà Bùi Thị Ẹm, sinh năm 1960; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Về nhân thân: “Ngày 20/5/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 09/2015/HSST”.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2021. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Bùi Thành C: ông Bùi Văn M -Trợ giúp viên thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

- Người bị hại: Bà Bùi Thị Kh, sinh năm 1966; Trú tại: xóm R, xã Q, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Ông Bùi Văn T, sinh năm 1959. Trú tại: xóm B, xã Q, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Có mặt

- C ty TNHH Tài chính S – Đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng là ông Trần Văn T, sinh năm 1985. Có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Bùi Văn N, sinh năm 1977; Trú tại: xóm R, xã Q, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

+ Chị Quách Thị H, sinh năm 1994. Trú tại: xóm Bục, xã Tử Nê, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 20/12/2021 Bùi Thành C, sinh năm 1996, trú tại: xóm B, xã Q, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 28N1 – xxxxx đi từ nhà đến khu vực xóm R, xã Q, huyện Lạc Sơn với mục đích mua mỳ tôm và trứng về để ăn đêm. C điều khiển xe mô tô đến của hàng tạp hóa của bà Bùi Thị Kh, sinh năm 1966 tại xóm R, xã Q, huyện Lạc Sơn, C dừng đỗ xe mô tô ở sát mép đường và đi tới gõ cửa quán gọi bà Kh dậy bán hàng cho mình. Lúc này chỉ có một mình bà Kh ở trong quán (tại thời điểm đó đang bị mất điện), bà Kh dùng đèn pin soi, không mở cửa quán mà đứng ở bên trong nói chuyện với C. Qua trao đổi bà Kh có lấy mỳ tôm và trứng bán cho C rồi đưa qua khe cửa quán và thông báo số tiền phải thanh toán là 200.000 đồng. Do C không đủ tiền trả và thấy bà Kh ở tại quán một mình trong đêm khuya vắng người nên C nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của bà Kh. C lấy lý do khóa quần bị hỏng nên không lấy được ví để trả tiền và mượn dao, tua vít của bà Kh để mở khóa quần nhằm dụ bà Kh mở cửa lấy cơ hội tiếp cận bà Kh và quan sát để chiếm đoạt tài sản. Sau khi bà Kh mở cửa lấy dao, tua vít cho C mượn, C nói chuyện với bà Kh và đi vào trong quán, qua ánh đèn pin của bà Kh, C nhìn thấy có tiền để trong hộp giấy gần giường ngủ và nảy sinh ý định dùng vũ lực với bà Kh để chiếm đoạt tài sản. C tiếp tục ra ngoài hiên ngồi nói chuyện với bà Kh nhằm chờ cơ hội thuận lợi để cướp tài sản của bà Kh. Đến khoảng 03 giờ 30 phút cùng ngày, trong lúc C và bà Kh đang ngồi nói chuyện tại hiên quán thì có ông Bùi Văn Nam, sinh năm 1977 là người cùng xóm với bà Kh đi làm nương rẫy qua và vào quán ngồi hút thuốc lào. Lúc này C cũng ngồi và đi lại xung quanh sân quán để chờ thời cơ thực hiện hành vi phạm tội. Đến khoảng 03 giờ 45 phút cùng ngày khi ông Nam ra về, chỉ còn bà Kh và C ở tại quán. Khi bà Kh đang ngồi trên ghế nhựa tại hiên quán bất ngờ C đi ra phía sau lưng bà Kh, đứng từ phía sau lưng bà Kh dùng hai tay bóp vào vùng cổ bà Kh trong khoảng thời gian gần một phút làm bà Kh ngất đi nằm dưới đất. Khi đó do sợ bà Kh nằm đó sẽ ảnh hưởng đến tính mạng, nên C bế bà Kh đặt nằm trên giường trong quán và đắp chăn lại, rồi lục soát và chiếm đoạt số tiền mặt là 492.000đ (Bốn trăm chín mươi hai nghìn đồng) cùng 04 thẻ cào nạp tiền điện thoại của nhà mạng VIETTEL mỗi thẻ mệnh giá 50.000 đ (Năm mươi nghìn đồng). Chiếm đoạt được tài sản C điều khiển xe mô tô rời khởi hiện trường. Về đến nhà C đã nạp 04 chiếc thẻ cào nạp tiền điện thoại mệnh giá 50.000 đồng mà mình vừa cướp được vào số thuê báo di động 0978176967 của mình để sử dụng, đồng thời đốt toàn bộ vỏ số thẻ cào vừa nạp, số tiền cướp được bị cáo đã sử dụng để tiêu sài cá nhân hết. Tài sản không thu hồi được.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 263/Tgt ngày 30/12/2021 của Trung tâm pháp y – Sở Y tế tỉnh Hòa Bình xác định: “Nạn nhân Bùi Thị Kh bị thương tích: các vết xước da vùng cổ; Chấn thương thanh quản gây khó thở nhẹ. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 29%”.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện Lạc Sơn đã tạm giữ các vật chứng gồm: 01 (Một) hộp giấy có kích thước ( 28 x 42 ) cm, 01 (Một) chiếc ví màu đen đã cũ, qua sử dụng thu giữ của bà Bùi Thị Kh; 01 (Một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu VTEL, loại A1, màu lục, điện thoại cũ đã qua sử dụng, khay sim 1 có lắp sim có số sêri 898404800031208xxxx; khay sim số 2 lắp sim có số sêri 898404800033548xxxx, 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA , số loại Wave @, màu sơn đen, BKS 28N1- xxxxx, xe đã cũ qua sử dụng, 01 (Một) áo khoác dạng áo nỉ màu sám, loại áo có mũ, có khóa kéo ở phía trước, có túi ở hai bên, chiều dài thân áo 0,55m, chiều rộng thân áo 0,47m áo đã cũ qua sử dụng và 01 (Một) quần dài màu xanh, dạng quần gió chiều dài 1,0m, chiều rộng tại vị trí cạp quần là 0,40 m, phía trước có 02 biểu tượng chữ thêu không xác định rõ, cạp quần bằng chun có dây rút buộc, hai ống thun dạng bằng chun thu giữ của Bùi Thành C. Tất cả vật chứng, đồ vật, tài liệu trên được chuyển đến chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn chờ xử lý.

Về trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra, truy tố bị hại bà Bùi Thị Kh yêu cầu bị cáo Bùi Thành C phải bồi thường tổng số tiền là 10.927.000đ (Mười triệu chín trăm hai mươi bảy nghìn đồng) nhưng bị cáo Bùi Thành C chưa thực hiện việc bồi thường. Đến giai đoạn chuẩn bị xét xử, bị hại và gia đình bị cáo Bùi Thành C thỏa thuận mức bồi thường là 10.000.000đ (Mười triệu đồng). Hiện gia đình bị cáo đã bồi thường toàn bộ số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) cho người bị hại. Người bị hại không có yêu cầu gì thêm về mặt dân sự.

Tại Cơ quan điều tra, Bùi Thành C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập được Về xử lý vật chứng, bị cáo Bùi Thành C đề nghị: Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA , số loại Wave @, màu sơn đen, BKS 28N1- xxxxx: Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 28002985 mang tên chủ xe Bùi Thành C do C an huyện Lạc Sơn cấp ngày 27/7/2021 hiện đang được thế chấp bảo đảm cho khoản vay theo Hợp đồng tín dụng số 2W021381593 ngày 25/7/2021 giữa bên cho vay là C ty tài chính S và bên vay là Bùi Thành C. Bị cáo đồng ý giao xe mô tô nêu trên cho C ty tài chính S để đảm bảo cho khoản vay theo hợp đồng, phần chênh lệch sau khi phát mại tài sản thế chấp giá trị lớn hơn khoản nợ (nếu có) ,bị cáo không có yêu cầu nhận lại, nếu không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì bị cáo xin C ty tài chính S miễn trừ khoản nợ còn lại. Đối với những vật chứng thu giữ của bị cáo mà không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo thì bị cáo đề nghị HĐXX trả lại bị cáo.

Tại bản cáo trạng số: 13/CT-VKS ngày 07/04/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn đã quyết định truy tố bị cáo Bùi Thành C về tội: "Cướp tài sản" theo điểm c khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi vị đại diện Viện Kiểm sát công bố bản luận tội. Nội dung bản luận tội đã phân tích tính chất, mức độ, nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo và khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Cướp tài sản”; Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm k khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS xử phạt Bùi Thành C từ 13 đến 14 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 168 BLHS đối với bị cáo do không có tính khả thi.

Vật chứng của vụ án: Đề nghị xử lý theo quy định tại khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Không đề cập giải quyết.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là C ty tài chính S đề nghị nhận lại xe mô tô nhãn hiệu HONDA , số loại Wave @, màu sơn đen, BKS 28N1- xxxxx để thu hồi hồi toàn bộ số nợ gốc và lãi theoHợp đồng tín dụng số 2W021381593 ngày 25/7/2021 giữa bên cho vay là C ty tài chính S và bên vay là Bùi Thành C. Phần chênh lệch sau khi phát mại tài sản thế chấp giá trị lớn hơn khoản nợ (nếu có),bị cáo không có yêu cầu nhận lại thì đề nghị HĐXX ghi nhận, nếu không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì C ty tài chính S sẽ miễn trừ khoản nợ còn lại cho bị cáo Bùi Thành C.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Bùi Văn T không đề nghị bị cáo trả lại số tiền đã đứng ra bồi thường cho người bị hại.

Tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và đề nghị HĐXX trả lại những vật chứng thuộc quyền sở hữu hợp pháp mà bà Bùi Thị Kh đã giao nộp.

Người bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh và điều luật áp dụng, đề nghị xử phạt bị cáo từ 12 đến 13 năm tù. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng kinh tế khó khăn, gia đình bị cáo có người có công với cách mạng, gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo có tuổi đời còn trẻ, nhận thức pháp luật còn hạn chế nên khi quyết định hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố, nội dung bản luận tội của Viện kiểm sát đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của Viện Kiểm sát, không bổ sung luận cứ bào chữa. Tại lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về hòa nhập với cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra C an huyện Lạc Sơn, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở khẳng định: Ngày 20/12/2021, tại khu vực xóm R, xã Q, huyện Lạc Sơn, Bùi Thành C đã có hành dùng vũ lực (bóp cổ) chiếm đoạt tài sản gồm số tiền 492.000 đồng và 04 thẻ cào nạp tiền điện thoại của nhà mạng VIETTEL mỗi thẻ mệnh giá 50.000 đồng của bà Bùi Thị Kh (là người khuyết tật đặc biệt nặng), tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 692.000 đồng, hành vi dùng vũ lực gây tổn 29% sức khỏe cho bà Bùi Thị Kh. Bùi Thành C là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý nên hành vi của Bùi Thành C phạm vào tội “Cướp tài sản” theo quy định tại Điều 168 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn truy tố bị cáo Bùi Thành C về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an trên địa bàn, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Hành vi của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, không những gây thiệt hại về tài sản; sức khỏe mà còn gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hậu quả do hành vi của mình gây ra.

[4]. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 20/5/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 09/2015/HSST.

[5]. Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Xét về nhân thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, sinh ra và lớn lên làm ăn tại địa phương, có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo không chịu tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản thân, để thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên đã bất chấp pháp luật, đi vào con đường phạm tội. Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo đã tác động đến gia đình để bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại, Bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo, gia đình bị cáo có người có công với cách mạng, tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bùi Thành C có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội đối với người khuyết tật đặc biệt nặng theo quy định tại điểm k khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6]. Về mức hình phạt: HĐXX xét thấy bị cáo có nhân thân xấu nên cần phải áp dụng một hình phạt tương ứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để dăn đe giáo dục đối với bị cáo. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa mới đủ tác dụng cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung. HĐXX chấp nhận một phần quan điểm của người bào chữa.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8]. Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại Bùi Thị Kh không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét; Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Bùi Văn T không có yêu cầu bị cáo trả lại số tiền mà ông Tiến đã đứng ra bồi thường cho người bị hại nên HĐXX không đề cập giải quyết.

[10]. Về xử lý vật chứng: Về vật chứng vụ án, căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự cần xử lý như sau:

- Đối với 01 (Một) áo khoác dạng áo nỉ màu sám, loại áo có mũ, có khóa kéo ở phía trước, có túi ở hai bên, chiều dài thân áo 0,55m, chiều rộng thân áo 0,47m áo đã cũ qua sử dụng và 01 (Một) quần dài màu xanh, dạng quần gió chiều dài 1,0m, chiều rộng tại vị trí cạp quần là 0,40 m, phía trước có 02 biểu tượng chữ thêu không xác định rõ, cạp quần bằng chun có dây rút buộc, hai ống thun dạng bằng chun thu giữ của Bùi Thành C, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, tại phiên tòa bị cáo C đề nghị trả lại nên HĐXX chấp nhận.

- Đối với 01 (Một) hộp giấy có kích thước ( 28 x 42 ) cm, 01 (Một) chiếc ví màu đen đã cũ, qua sử dụng thu giữ của bà Bùi Thị Kh, bà Bùi Thị Kh yêu cầu trả lại nên HĐXX chấp nhận.

- 01 (Một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu VTEL, loại A1, màu lục, điện thoại cũ đã qua sử dụng, khay sim 1 có lắp sim có số sêri 898404800031208xxxx; khay sim số 2 lắp sim có số sêri 898404800033548xxxx. Đây là điện thoại của Bùi Thành C, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, tại phiên tòa tại phiên tòa bị cáo C đề nghị trả lại nên HĐXX chấp nhận.

- Đối với 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA , số loại Wave @, màu sơn đen, BKS 28N1- xxxxx, xe đã cũ qua sử dụng. Vật chứng trên xác định là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của Bùi Thành C, không dùng vào việc phạm tội. Tại phiên tòa bị cáo đồng ý giao chiếc xe nêu trên cho C ty Tài chính S, không nhận lại phần chênh lệch sau khi phát mại tài sản thế chấp giá trị lớn hơn khoản nợ (nếu có); C ty Tài chính S miễn trừ khoản nợ cho bị cáo Bùi Thành C nếu sau khi phát mại tài sản thế chấp không đủ để thực hiện nghĩa vụ . Xét thấy, sự thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên HĐXX chấp nhận.

[11]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[12]. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm k khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

1. Về tội danh: tuyên bố: Bị cáo Bùi Thành C phạm tội “Cướp tài sản”.

2. Về hình phạt: xử phạt bị cáo Bùi Thành C 13 (Mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về dân sự: Không đặt ra giải quyết

4. Về vật chứng:

Căn cứ khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 14 Nghị Quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội khóa 14 quy định về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng:

- Trả lại cho bị cáo Bùi Thành C: 01 (Một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu VTEL, loại A1, màu lục, điện thoại cũ đã qua sử dụng, khay sim 1 có lắp sim có số sêri 898404800031208xxxx; khay sim số 2 lắp sim có số sêri 898404800033548xxxx; 01 (Một) áo khoác dạng áo nỉ màu sám, loại áo có mũ, có khóa kéo ở phía trước, có túi ở hai bên, chiều dài thân áo 0,55m, chiều rộng thân áo 0,47m áo đã cũ qua sử dụng và 01 (Một) quần dài màu xanh, dạng quần gió chiều dài 1,0m, chiều rộng tại vị trí cạp quần là 0,40 m, phía trước có 02 biểu tượng chữ thêu không xác định rõ, cạp quần bằng chun có dây rút buộc, hai ống thun dạng bằng chun thu.

- Trả lại cho bà Bùi Thị Kh: 01 (Một) hộp giấy có kích thước (28 x 42 ) cm, 01 (Một) chiếc ví màu đen đã cũ, qua sử dụng.

- Giao 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA , số loại Wave @, màu sơn đen, BKS 28N1- xxxxx cho C ty tài chính S để xử lý nợ theo Hợp đồng tín dụng số 2W021381593 ngày 25/7/2021 giữa bên cho vay là C ty tài chính S và bên vay là Bùi Thành C.

(Vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/5/2022 giữa C an huyện Lạc Sơn với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn).

5. Án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí tòa án. Bị cáo Bùi Thành C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo:

Áp dụng Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 15/2022/HS-ST

Số hiệu:15/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;