Bản án về tội cướp tài sản số 07/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 07/2022/HS-ST NGÀY 17/02/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 02/2022/TLST-HS ngày 13 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

P M, sinh năm 1982; tại tỉnh K H. Nơi cư trú: Thôn T L, xã V T, huyện V N, tỉnh K H; nghề nghiệp: Làm biển; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông P M, sinh năm 1959 và bà P T L, sinh năm 1960; co vợ N T T S, sinh năm 1986 va 02 con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không; tạm giam từ ngày 20/9/2021; có mặt.

- Bị hại:

1.Ông T X, sinh năm 1973. Nơi cư trú: Thôn T L, xã V T, huyện V N, tỉnh K H; vắng măt.

2. T L, sinh năm 1968. Nơi cư trú: Thôn T L, xã V T, huyện V N, tỉnh K H; vắng măt.

3. Phạm Hoàng T, sinh năm 1971. Nơi cư trú: Thôn T L, xã V T, huyện V N, tỉnh K H; vắng măt.

4. V T, sinh năm 1973. Nơi cư trú: Thôn T L, xã V T, huyện V N, tỉnh K H; vắng măt.

5. N Đ L, sinh năm 1969. Nơi cư trú: Thôn T L, xã V T, huyện V N, tỉnh K H; vắng măt.

6. N V T, sinh năm 1964. Nơi cư trú: Thôn T L, xã V T, huyện V N, tỉnh K H; vắng măt.

7. L V T, sinh năm 1971. Nơi cư trú: Thôn T L, xã V T, huyện V N, tỉnh K H; vắng măt.

8. N A S, sinh năm 1956. Nơi cư trú: Thôn T L, xã V T, huyện V N, tỉnh K H; vắng măt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. N Th S, sinh năm 1982. Nơi cư trú: Thôn T L, xã V T, huyện V N, tỉnh K H; vắng măt.

2. N T, sinh năm 1982. Nơi cư trú: Thôn T L, xã V T, huyện V N, tỉnh K H; vắng măt.

3. P N T, sinh năm 1980. Nơi cư trú: Thôn T L, xã V T, huyện V N, tỉnh K H; vắng măt.

4. T V Đ, sinh năm 1982. Nơi cư trú: Thôn T L, xã V T, huyện V N, tỉnh K H; vắng măt.

5. B V Đ, sinh năm 1981. Nơi cư trú: Thôn T L, xã V T, huyện V N, tỉnh K H; vắng măt.

6. L V H, sinh năm 1983. Nơi cư trú: Thôn T L, xã V T, huyện V N, tỉnh K H; vắng măt.

7. T V V, sinh năm 1976. Nơi cư trú: Thôn T L, xã V T, huyện V N, tỉnh K H; vắng măt.

8. N T T S, sinh năm 1986. Nơi cư trú: Thôn T L, xã V T, huyện V N, tỉnh K H; vắng măt.

9. P T L, sinh năm 1960. Nơi cư trú: Thôn T L, xã V T, huyện V N, tỉnh K H; vắng măt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 16/12/2001, N Th S, T V Đ, L V H, N T, P N T, B V Đ và P M chở nhau trên 02 xe mô tô đến cảng cá thuộc thị trấn G, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa ăn nhậu. Sau đó, S rủ cả nhóm vào dốc Đá Trắng thuộc xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh để mua dâm nhưng không ai có tiền nên S rủ ra Quốc lộ 1A chặn xe ô tô tải để lấy tiền, cả nhóm đồng ý. Khi đến đầu cầu ngoài dốc Đá Trắng, cả nhóm ra đứng giữa đường chặn một số xe ô tô tải hỏi xin tiền nhưng các tài xế không cho. S bảo tìm một cây mã tấu khống chế tài xế mới lấy tiền được, H nói có một cây mã tấu ngoài Dốc Ké rồi H vào nhà chị Phạm Thị Hương ở thôn T Dân, xã Vạn Thắng, huyện Vạn Ninh lấy 01 cây mã tấu dài khoảng 40cm đưa cho S. S cầm mã tấu, T, Th, Đ, Đại, H, M cầm đá đứng hàng ngang gia đường chặn xe ô tô tải biển số 78K-1076 của anh T X lưu hành hướng Nha Trang – Tuy Hòa. S cầm mã tấu nhảy lên cabin xe khống chế anh X đang ngồi bên phụ xe yêu cầu đưa tiền. Anh X không đồng ý thì bị S chém trúng môi và vai chảy máu. Thấy cả nhóm đang chặn xe ô tô khác, anh X bảo tài xế lái xe bỏ chạy, cả nhóm ng xe mô tô rượt đui chặn xe anh X lại đòi chém chết những người ngồi trên xe. Người chủ hàng đi trên xe anh X (không rõ tên tuổi, địa chỉ) sợ hãi nên đưa cho S 50.000 đồng. Cả nhóm tiếp tục đến đèo Cổ Mã chặn nhiều xe ô tô tải khác (không xác định người bị hại), S, T, Th, H thay phiên nhau nhảy lên cabin xe, cầm mã tấu kê vào cổ, gáy khống chế các lái xe buộc đưa tiền, còn M, Đ, Đ1đứng dưới đường cầm đá chặn xe. Đến khoảng 02 giờngày 17/12/2001, cả nhóm lấy được tổng cộng 450.000 đồng rồi đến quán của bà Phan Thị Đnh ở thôn Tây Nam, xã Đ1Lãnh, huyện Vạn Ninh ăn nhậu và mua dâm, khi trả tiền thiếu nợ bà Định 80.000 đồng. Khoảng 05 giờ cùng ngày, cả nhóm đi vào thị trấn G rủ anh Nguyễn Th L vào hát karaoke, ăn nhậu chung rồi S bảo anh L thế chấp đồng hồ và nhẫn vàng lại cho chủ quán. Sau đó S, T, Th, H, M, Đ, Đ1bàn thống nhất đến khu vực Đèo Cả tiếp tục chặn xe lấy tiền để trả nợ, chuộc tài sản trả lại L và ăn nhậu tiếp. S chuẩn bị thêm một y mã tấu dài 62cm. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 17/12/2001, cả nhóm ra Đèo Cả thuộc xã Hòa X Nam, huyện Tuy Hòa (nay là thị xã Đông Hòa) chặn xe và thay nhau nhảy lên cabin xe khống chế, đe dọa tài xế các xe ô tô tải biển số 52LD-xxxx của anh T L lấy 100.000 đồng, xe 43K-xxxx của anh Phạm Hoàng T lấy 100.000 đồng, xe 54N-xxxx của anh Nguyễn Long H lấy 100.000 đồng và một số xe ô tô tải khác (không xác định người bị hại), lấy của mỗi bị hại ít nhất là 10.000 đồng, nhiều nhất là 100.000 đồng. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, cả nhóm đến quán chị Nguyễn Thị Hận ở Hòa Hiệp Trung, huyện Tuy Hòa, gom tiền lại đếm được 1.110.000 đồng (chưa tính số tiền 30.000 đồng đã mua xăng và thuốc lá trước đó). S giữ 1.000.000 đồng, còn 110.000 đồng trả tiền ăn nhậu. Sau đó, cả nhóm đi vào Đèo Cả chặn xe ô tô tải biển số 29M-xxxx của anh V T lấy 100.000 đồng, xe 78K-xxxx của anh N V T lấy 20.000 đồng và một số xe ô tô tải khác (không xác định người bị hại) lấy 30.000 đồng. Khoảng 24 giờ cùng ngày, cả nhóm đến xã Đ1Lãnh gặp rủ T V V vào quán bà Phạm Thị Định uống nước 50.000 đồng và trả nợ 80.000 đồng, rồi rủ về nhà V ăn nhậu. Khi ra đường Quốc lộ 1A, cả nhóm thấy xe ô tô tải biển số 78K-xxxx do anh Nguyễn An Sơn điều khiển đang chở vịt nên lại xin thì chủ vịt đồng ý, cả nhóm lấy 02 con vt đem về nhà V.

Công an huyện Vạn Ninh tiếp nhận tố giác đến nhà V bắt giữ Th, T, Đại, Đ. Lúc này, V biết S là người giữ tiền cướp được nên nói S đưa hết tiền cho V để tránh bị Công an kiểm tra phát hiện. S sợ nên đưa cho V 700.000 đồng. V đưa lại cho S, H 30.000 đồng và M 50.000 đồng để bỏ trốn, số tiền còn lại V sử dụng cá nhân.

N Th S, N T, P N T, T V Đ, Bùi Vũ Đ, Bùi M H và T V V đã bị Toa an nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm tại Bản án số 65/HSST ngày 24, 25/9/2002 và Tòa phúc thẩm Toa an nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm tại Bản án số 363/2003/HSPT ngày 07/5/2003.

P M tiếp tục bỏ trốn, đến ngày 20/9/2021 bị bắt theo quyết định truy nã.

Tại bản Cáo trạng số: 04/CT-VKS-P1 ngày 12/01/2022 cua Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên truy tố P M về tội “Cướp tài sản” theo Điểm d, Khoản 2, Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, bị cáo P M vân khai nhận tội như đa khai tai cơ quan điều tra, thưa nhân nội dung bản Cáo trạng truy tố bi cao la đung, không oan.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi phân tích hành vi phạm tội và các tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bi cao P M pham tội “Cướp tài sản”. Ap dụng Điểm d, Khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội; Khoản 3 Điều 7; Điểm d, Khoản 2 Điều 168; Điểm s, Khoản 1 Điều 51; Điểm g, Khoản 1 Điều 52 Bô luât Hinh sư năm 2015; phạt P M tư 07 đến 08 năm tu.

Bi cao Pham M không tranh luân gi, tiếp tục xin giam nhe hinh phat.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thu tuc tố tung

[1.1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng; người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; các bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Tại phiên tòa, cac bi hai; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan va người làm chứng vắng mặt. Xét thấy, cac bi hai; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan va người làm chứng đã có lời khai tại Cơ quan điều tra, việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Do đó, chấp nhận ý của Kiểm sát viên, bi cao, căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tòa án tiến hành xét xử vụ án.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo P M tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa đều phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của các đồng pham; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng và các tài liệu la chưng cư khac có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Trong 02 đêm 16 và 17/12/2001 tại dốc Ké, đèo Cổ Mã thuộc huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và Đèo Cả thuộc xã Hòa X Nam, huyện Tuy Hòa (nay là thị xã Đông Hòa), tỉnh Phú Yên. P M cùng N Th S, N T, P N T, T V Đ, B V Đ và L V H thống nhất vơi nhau dùng đá, mã tấu chặn xe ô tô, khống chế, đe dọa, đánh các tài xế T X, T L, Phạm Hoàng T, Nguyễn Long H, Nhữ Anh Th, N V T và một số tài xế khác chiếm đoạt tổng số tiền 1.740.000 đồng. Do đó, bản Cáo trạng số: 04/CT-VKSPY-P1 ngày 12/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Yên truy tố bị cáo P M về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại Điểm d, Khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999 là có căn cứ, đúng tội. Tuy nhiên, so sánh Khoản 4 Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999 có khung hình phạt tù từ mười tam năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình với tội “Cươp tai san” tại Khoản 4 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoăc tu chung thân; thì điều luật mới đã quy định một hình phạt nhẹ hơn, nên Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điểm b, Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017; Khoản 3 Điều 7; Điểm d, Khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử lý hành vi phạm tội của bị cáo Pham M là phù hợp.

[3] Hành vi cua bi cao Pham M, thống nhất cung đồng pham sư dung hung khí nguy hiểm như đá, mã tấu chăn nhiều xe ô tô, tấn công nhiều tai xế trong nhiều đêm liên tục, làm người bị hai hoang sơ phải đưa tiền cho cac bi cao đi ăn nhâu, mua dâm la rất nguy hiêm; không chi xâm phạm đến sưc khoe, quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác trai pháp luật, ma con gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an – an toàn xã hội trên tuyến Quốc lô 1A, nơi co rất nhiều xe cô qua lai; ban thân bị cao sau khi phạm tội bỏ trốn, gây trơ ngai cho hoat đông tố tung, nên chấp nhân y kiến của Kiêm sat viên đê xư phạt nghiêm. Tuy nhiên, bi cao đa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải la tinh tiết giam nhe trach nhiêm hinh sư Điểm s, Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, nên xem xet lương hinh cho phu hơp.

[4] Về trách nhiệm bồi thường dân sự va xư ly vât chưng: Đa đươc giai quyết tại Bản án hinh sự sơ thâm số: 65/HSST ngày 24, 25/9/2002 của Toa an nhân dân tinh Phu Yên và Bản án hinh sự phuc thâm số: 363/2003/HSPT ngày 07/5/2003 cua Tòa phúc thẩm Toa an nhân dân tối cao tại Đà Nẵng, nên không xet.

[5] Về an phi: Bị cáo P M bị kết án phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo P M phạm tội: “Cướp tài sản”.

1. Về Hình phạt: Ap dụng Điểm d, Khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999; Điểm b, Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội; Khoản 3 Điều 7; Điểm d, Khoản 2 Điều 168; Điểm s, Khoản 1 Điều 51; Điểm g, Khoản 1 Điều 52 Bô luât Hinh sư năm 2015;

Phạt: Bị cáo P M – 08 (Tam) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/9/2021.

2. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo P M phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đối với cac bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 07/2022/HS-ST

Số hiệu:07/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;