Bản án về tội cướp tài sản (cướp xe) số 52/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 52/2021/HS-ST NGÀY 14/04/2021 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 35/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Dương Chí C; sinh ngày 26 tháng 01 năm 2001 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: 67/192 Bùi Đình Túy, Phường X, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con bà Dương Nhật T, không rõ họ tên cha; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/11/2020 (hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện H). Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Vương Văn G; sinh ngày 18 tháng 12 năm 2005 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: 266/94/29 Tôn Đản, Phường D, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 724/3 Nguyễn Duy, Phường X, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vương Văn T và bà Phạm Hồng H; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/11/2020 (hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện H). Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng:

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Vương Văn G: Ông Vương Văn M, sinh năm: 1972 - là bác ruột của bị cáo Vương Văn G. (có mặt) Địa chỉ: 122/27/56/5/19 Tôn Đản, Phường D, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người bào chữa cho bị cáo Vương Văn G: Ông Huỳnh Khắc T - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

Bị hại: Trẻ Nguyễn Hữu T, sinh năm 2005. (có đơn xin vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1977 - là cha ruột của bị hại. (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: 11/3 ấp Mỹ Hòa 1, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Bà Trần Thị H - Trợ giúp viên pháp lý thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Dương Nhật T, sinh năm 1977. (vắng mặt) Địa chỉ: 67/192 Bùi Đình Túy, Phường X, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1977. (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: 11/3 ấp Mỹ Hòa 1, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Dương Chí C và Vương Văn G là bạn bè của nhau, do thiếu tiền tiêu xài nên C rủ G đi cướp tài sản của người khác, đồng thời C đưa cho G 01 bình xịt hơi cay. Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 12/11/2020, C điều khiển xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số: 72C1 - X, màu xanh đen chở G đi đến ngã tư đường Song hành Quốc lộ 22 - Nguyễn Ảnh Thủ, C phát hiện Nguyễn Hữu T đi trên xe gắn máy dạng Wave hiệu Wonder, biển số: 51F9 - X nên C nói với G “cướp xe này” thì G đồng ý. Lúc này, C ép xe của T chạy lên lề đường, chặn đầu xe rồi nói “giấy tờ xe mày đâu, chứng minh đâu” thì T trả lời “em không có giấy tờ xe, xe của ba em, giấy tờ xe ba em giữ ở nhà rồi”, nên C nói “không có giấy tờ thì lên xe đi về Công an phường kiểm tra”. T hoảng sợ nhưng kịp rút chìa khóa xe ra và ngồi lên xe của C. G ngồi lên xe của T nhưng do không có chìa khóa không nổ máy được nên C phải dùng chân đẩy đi trên đường Song hành Quốc lộ 22 hướng ra Quốc lộ 1A. Trên đường đi, C dùng lời lẽ đe dọa T như “mày ngồi im không tao đánh mày, mày có điện thoại, tiền bạc gì không”. Khi gần đến trường Trung học cơ sở Nguyễn An Ninh thuộc Quận 12 thì C dừng xe lại, buộc T đưa ra chìa khóa xe và nói G đưa bình xịt hơi cay. C cầm bình xịt hơi cay đưa ra trước mặt T để hù dọa rồi nói T qua xe G đang điều khiển, C điều khiển xe Exciter đi trước, còn G chở thắng chạy theo phía sau. Khi đến trước nhà địa chỉ: 23/4D ấp Đông Lân 1, xã B, huyện H thì C dừng lại, yêu cầu T xuống xe rồi lấy bình xịt hơi cay cầm trên tay hăm dọa đòi đánh T thì T nói “em biết mấy anh là cướp rồi, mấy anh tha cho em lần này” nhưng C và G vẫn chiếm đoạt xe của T và điều khiển 02 xe gắn máy bỏ chạy thoát.

Qua truy xét, Cơ quan điều tra đã mời Dương Chí C và Vương Văn G đến làm việc. Tại Cơ quan điều tra, Dương Chí C và Vương Văn G khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên và C giao nộp lại xe gắn máy đã chiếm đoạt của bị hại. Ngoài ra, cả hai còn khai nhận đã thực hiện một số vụ trộm cắp tài sản và cướp giật tài sản khác, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 03 giờ 00 phút ngày 02/11/2020, C điều khiển xe gắn máy hiệu Wave, không rõ biển số trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7, màu vàng của người đàn ông say xỉn (không rõ lai lịch) đang ngủ trên ghế đá trước nhà địa chỉ: 06 đường B 13B, ấp Đông Lân, xã B, huyện H rồi bán cho người thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 750.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 05/11/2020, C điều khiển xe gắn máy trên cướp giật điện thoại di động hiệu Mobistar, màu vàng nhạt của bé gái khoảng 03 - 04 tuổi (không rõ lai lịch) đang cầm trên tay xem phim tại trước nhà địa chỉ: 9/8A ấp Mỹ Hòa 4, xã Xuân Thới Đông, huyện H rồi bán cho tên M (không rõ lai lịch) với giá 350.000 đồng.

Vụ thứ ba: Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 08/11/2020, C điều khiển xe gắn máy hiệu Wave, không rõ biển số cướp giật điện thoại di động của người phụ nữ (không rõ lai lịch) đang vừa sử dụng vừa điều khiển xe gắn máy trên Quốc lộ 1A thuộc địa bàn phường An Phú Đông, Quận 12 rồi mang đi cầm tại tiệm cầm đồ Thanh Lịch trên đường Thái Thị Giữ, huyện H với giá 800.000 đồng.

Vụ thứ tư: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 12/11/2020, C điều khiển xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số: 72C1 - X chở G cướp giật điện thoại di động hiệu Samsung A31 của người phụ nữ (không rõ lai lịch) điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Click, không rõ biển số, màu đỏ tại địa bàn phường Hiệp Thành, Quận 12 rồi bán cho tiệm điện thoại H trên đường Trường Chinh, quận Tân Phú với giá 2.500.000 đồng, mỗi người chia nhau 1.250.000 đồng.

Vụ thứ năm: Sau khi cướp tài sản của bị hại T vào ngày 12/11/2020, C điều khiển xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số: 72C1 - X, còn G điều khiển xe gắn máy hiệu Wonder, biển số: 51F9 - X tẩu thoát về hướng đường Lê Trọng Tấn, quận Tân Phú, cả hai cướp giật điện thoại di động hiệu Samsung A20, màu xanh của người phụ nữ (không rõ lai lịch) điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Lead, không rõ biển số, màu xanh rồi bán cho tiệm điện thoại H trên đường Trường Chinh, quận Tân Phú với giá 1.500.000 đồng, mỗi người chia nhau 750.000 đồng Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 198/KL-HĐĐGTS ngày 26 tháng 11 năm 2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện H kết luận: 01 xe gắn máy hiệu Wonder, biển số: 51F9 - X, màu xanh trị giá 1.500.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số: 37/CT-VKS-HS ngày 22 tháng 02 năm 2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Dương Chí C và Vương Văn G ra trước Tòa án nhân dân huyện H, Thành phố Hố Chí Minh để xét xử về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d, e khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân dân huyện H đề nghị Hội đồng xét xử xem xét:

- Áp dụng điểm d, e khoản 2 Điều 168, điểm o khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Dương Chí C từ 08 năm đến 09 năm tù.

- Áp dụng điểm d, e khoản 2 Điều 168, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91, khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Vương Văn G từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy đối với 01 quần jean dài màu xanh, 01 áo sơ mi dài tay màu đen, 01 mũ bảo hiểm màu đen, 01 quần jean dài màu đen, 01 mũ bảo hiểm màu trắng, 01 biển số: 59Y1 - X. Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước đối với 01 điện thoại di động hiệu iPhone 6. Trả lại 01 xe gắn máy dạng Wave hiệu Wonder, màu xanh, biển số: 51F9 - X và 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số: 72C1 - X cho người quản lý, sử dụng hợp pháp.

Tại phiên tòa, các bị cáo Dương Chí C và Vương Văn G thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không trình bày bổ sung và không có ý kiến tranh luận với nội dung truy tố của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Vương Văn G là ông Vương Văn M không có ý kiến tranh luận với nội dung truy tố của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H.

Luật sư Huỳnh Khắc T bào chữa cho bị cáo Vương Văn G xác định nội dung Cáo trạng truy tố bị cáo phạm tội “Cướp tài sản” là phù hợp. Tuy nhiên, cần xem xét về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như sau: bị cáo G có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi. Ngoài ra, khi phạm tội, bị cáo thuộc trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, nên cần áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đối với bị cáo. Từ đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54, khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xem xét cho bị cáo G được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Trợ giúp viên pháp lý bà Trần Thị H bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại Nguyễn Hữu T xác định nội dung Cáo trạng truy tố các bị cáo phạm tội “Cướp tài sản” là phù hợp. Phía bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trách nhiệm hình sự đối các bị cáo theo quy định của pháp luật, không yêu cầu các bị cáo bồi thường về dân sự và bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại là ông Nguyễn Văn N có yêu cầu xin được nhận lại xe gắn máy hiệu Wonder, biển số: 51F9 - X, màu xanh do ông N là người quản lý, sử dụng hợp pháp của chiếc xe.

Các bị cáo nói lời nói sau cùng: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, qua phần hỏi và tranh tụng công khai, các bị cáo đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, những người tham gia tố tụng khác và các chứng cứ khác đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án. Từ đó, có đủ cơ sở chứng minh do thiếu tiền tiêu xài nên bị cáo Dương Chí C đã rủ rê bị cáo Vương Văn G đi cướp tài sản. Vào chiều ngày 12/11/2020, bị cáo C điều khiển xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số: 72C1 - X chở bị cáo G phát hiện bị hại Nguyễn Hữu T đang đi trên xe gắn máy hiệu Wonder, biển số: 51F9 - X tại khu vực ngã tư đường Song hành Quốc lộ 22 - Nguyễn Ảnh Thủ nên đã ép xe của bị hại lên lề đường, chặn đầu xe và dùng lời nói giả danh Công an đưa bị hại về phường làm việc. Sau đó, các bị cáo đã chở bị hại đến trước nhà địa chỉ: 23/4D ấp Đông Lân 1, xã B, huyện H rồi dùng bình xịt hơi cay khống chế và đe dọa dùng vũ lực khiến cho bị hại không thể chống cự được để chiếm đoạt xe gắn máy trị giá 1.500.000 đồng của bị hại rồi cả hai tẩu thoát.

[3] Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

Hành vi sử dụng phương tiện xe gắn máy chặn đầu xe bị hại, dùng lời nói giả danh Công an, đe dọa dùng bình xịt hơi cay và vũ lực đối với bị hại nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thuộc trường hợp “Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác”. Tại thời điểm xảy ra sự việc, bị hại dưới 16 tuổi nên thuộc trường hợp “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi”. Đây là các tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm d, e khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Do đó, Bản cáo trạng số: 37/CT-VKS-HS ngày 22 tháng 02 năm 2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo Dương Chí C và Vương Văn G về tội “Cướp tài sản” theo điểm d, e khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ và đúng pháp luật.

Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

… d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

… e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;”

[4] Áp dụng điều luật được viện dẫn nêu trên cho thấy, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp rất nghiêm trọng với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục riêng đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cần xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo.

Bị cáo Dương Chí C có hành vi rủ rê, xúi giục bị cáo Vương Văn G là người dưới 18 tuổi phạm tội. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo C có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo Vương Văn G không có tình tiết tăng nặng, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Ngoài ra, khi phạm tội, bị cáo G thuộc trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Vì vậy, cần áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đối với bị cáo.

Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 quần jean dài màu xanh, 01 áo sơ mi dài tay màu đen, 01 mũ bảo hiểm màu đen, 01 quần jean dài màu đen, 01 mũ bảo hiểm màu trắng do không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu iPhone 6 do có liên quan đến việc liên lạc thực hiện hành vi phạm tội, nên tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 xe gắn máy dạng Wave hiệu Wonder, biển số: 51F9 - X là xe của bị hại Nguyễn Hữu T, sau khi cướp được bị cáo C đã gắn biển số: 59Y1 - X vào thay. Qua xác minh, xe gắn máy hiệu Wonder, biển số: 51F9 - X thuộc quyền quản lý, sử dụng hợp pháp của người đại diện hợp pháp của bị hại là ông Nguyễn Văn N. Ông Nguyễn Văn N có yêu cầu xin được nhận lại xe, nên cần trả lại xe gắn máy trên cho ông Nguyễn Văn N.

- Đối với biển số: 59Y1 - X, qua xác minh là của xe gắn máy hiệu Wave Alpha, màu đen - đỏ - bạc do bà Trần Thị N đứng tên chủ sở hữu nhưng bà Trần Thị N đã bỏ đi khỏi địa phương, không rõ đi đâu, do không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số: 72C1 - X là phương tiện thực hiện hành vi phạm tội của các bị cáo. Qua xác minh, xe gắn máy trên thuộc quyền quản lý, sử dụng hợp pháp của bà Dương Nhật T là mẹ ruột của bị cáo C. Qua làm việc, bà Dương Nhật T khai đã cho bị cáo C mượn xe gắn máy trên làm phương tiện đi lại nhưng không biết bị cáo sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội. Bà Dương Nhật T có yêu cầu xin được nhận lại xe, nên cần trả lại xe gắn máy trên cho bà Dương Nhật T.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt. Tuy nhiên, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện bị hại không có yêu cầu các bị cáo phải bồi thường về phần dân sự, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Đối với các vụ cướp giật tài sản xảy ra tại địa bàn Quận 12 và quận Tân Phú, Cơ quan điều tra Công an huyện H đã có công văn thông báo cho Cơ quan điều tra Công an Quận 12 và Cơ quan điều tra Công an quận Tân Phú giải quyết theo thẩm quyền. Riêng vụ trộm cắp tài sản và cướp giật tài sản xảy ra tại địa bàn huyện H, Cơ quan điều tra Công an huyện H đã đăng báo tìm bị hại nhưng chưa có kết quả, khi có kết quả sẽ điều tra, xử lý sau là phù hợp.

[9] Về án phí: Các bị cáo Dương Chí C và Vương Văn G mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm d, e khoản 2 Điều 168, điểm o khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Dương Chí C;

Áp dụng điểm d, e khoản 2 Điều 168, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 90, Điều 91, Điều 38, khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Vương Văn G;

Tuyên bố các bị cáo Dương Chí C Vương Văn G phạm tội “Cướp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Dương Chí C 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 16/11/2020.

Xử phạt bị cáo Vương Văn G 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 16/11/2020.

2. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tạm giam bị cáo Dương Chí C thời hạn 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.

Tạm giam bị cáo Vương Văn G thời hạn 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) quần jean dài màu xanh, 01 (một) áo sơ mi dài tay màu đen, 01 (một) mũ bảo hiểm màu đen, 01 (một) quần jean dài màu đen, 01 (một) mũ bảo hiểm màu trắng, 01 (một) biển số: 59Y1 - X.

Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu iPhone 6.

Trả lại cho ông Nguyễn Văn N 01 (một) xe gắn máy dạng Wave hiệu Wonder, màu xanh và 01 (một) biển số: 51F9 - X.

Trả lại cho bà Dương Nhật T (01) xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số: 72C1 - X.

Vật chứng của vụ án hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh đang quản lý theo Quyết định chuyển vật chứng số: 37/QĐ-VKS-HS ngày 22 tháng 02 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 ngày 12 tháng 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Về án phí: Buộc các bị cáo Dương Chí C và Vương Văn G mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp tài sản (cướp xe) số 52/2021/HS-ST

Số hiệu:52/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;