Bản án về tội cướp giật tài sản và trốn khỏi nơi giam, giữ số 16/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 16/2023/HS-ST NGÀY 24/05/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN VÀ TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ

Ngày 24 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đ. Tòa án nhân dân huyện Đắk Song mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 20/2023/HSST, ngày 28 tháng 04 năm 2023; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2023/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2023 đối với các bị cáo:

Hà S, sinh năm 1997 tại Bình Định; Nơi cư trú: Thôn H M, xã C H, huyện P C, tỉnh Bình Định; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Hà L, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1964; tiền án,tiền sự: không;

Ngày 08/12/2022 bị cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song khởi tố ra lệnh tạm giam về tội: “ Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự;

Ngày 09/12/2022 bị cáo thực hiện hành vi trốn khỏi nơi giam, giữ đến ngày 11/12/2022 thì bị bắt và bị khởi tố về tội: “Trốn khởi khỏi nơi giiam, giữ” theo khoản 1 Điều 386 của Bộ luật hình sự;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/12/2022. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đắk Song, tỉnh Đ – Có mặt tại phiên tòa.

Ngựời bị hại: Bà Tống Thị L; địa chỉ: Tổ B, TT Đ A, huyện Đ S, tỉnh Đ - Có mặt tại phiên tòa;

Ngựời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Điểu Mi Ch; Địa chỉ: Bon B D, xã Đ D, huyện Đ S, tỉnh Đ - Vắng mặt tại phiên tòa;

+ Ông Vũ Hồng L; Địa chỉ: Tổ B, TT Đ A, huyện Đ S, tỉnh Đ - Vắng mặt tại phiên tòa;

+ Ông Nay N; Địa chỉ: Tổ B, TT Đ A, huyện Đ S, tỉnh Đ - Có mặt tại phiên tòa;

+ Ông Đào Huy H; Địa chỉ: Tổ B, TT Đ A, huyện Đ S, tỉnh Đ - Có mặt tại phiên tòa;

+ Ông Nguyễn Phương N; Địa chỉ: Tổ B, TT Đ A, huyện Đ S, tỉnh Đ - Vắng mặt tại phiên tòa;

+ Ông Nguyễn Thế D; Địa chỉ: Tổ B, TT Đ A, huyện Đ S, tỉnh Đ - Vắng mặt tại phiên tòa;

+ Ông Dương Hoàng Đ; Địa chỉ: Tổ B, TT Đ A, huyện Đ S, tỉnh Đ - Vắng mặt tại phiên tòa;

+ Ông Trần Mạnh H; Địa chỉ: Tổ B, TT Đ A, huyện Đ S, tỉnh Đ - Vắng mặt tại phiên tòa;

+ Ông Phan Trung Đ; Địa chỉ: Thôn T Đ, xã Đ BS, huyện T Đ, tỉnh Đ - Có mặt tại phiên tòa;

+ Bà Phạm Thị V; Địa chỉ: Thôn T Đ, xã Đ B S, huyện T Đ, tỉnh Đ - Có mặt tại phiên tòa;

Nguyên đơn dân sự: Công an huyện Đ S; Địa chỉ: Tổ B, TT Đ A, huyện Đ S, tỉnh Đ - Có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến t ại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nợ tiền người khác nên tháng 11 năm 2022, Hà S từ thành phố Hồ Chí Minh về thôn H, xã Đ B S, huyện T Đ, tỉnh Đ để trốn nợ. Chiều ngày 02/12/2022, S nảy sinh ý định đi đến địa bàn huyện Đ S tìm kiếm các tiệm vàng, lợi dụng sơ hở sẽ tìm cách chiếm đoạt bán lấy tiền trả nợ và tiêu xài cá nhân Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, S đến nhà anh Phạm Trung Đ (bạn của S), nói: “mày chở tao ra huyện Đ S để mượn tiền của bạn”, nghe S nói thì Đ đồng ý, sau đó Đ mượn xe mô tô hiệu Yamaha Nouvo, biển kiểm soát: 48B1-xxxxx của chị gái là Phạm Thị V để chở S đi.

Cả hai đi đến khu vực ngã 3 Biển Xanh, thuộc tổ dân phố S thị trấn Đ A, huyện Đ S, tỉnh Đ thì S là người điều khiển xe mô tô chở anh Đ rồi đi về hướng huyện Đ M. Khi đi ngang qua cổng chợ huyện Đ S, S quan sát thấy tiệm vàng K L Đ, sát đường Quốc lộ 14 đang mở cửa nên S nảy sinh ý định vào chiếm đoạt tài sản. S điều khiển xe mô tô rẽ vào 01 con đường đá bên phải rồi dừng lại. S nói với Đ: “mày ở đây đợi, tao vô mượn tiền bạn rồi tao ra”, Đ trả lời: “lẹ đi không chị tao hối, được hay không năm mười phút là tao về”, S im lặng, một mình đi bộ ra đường Quốc lộ14, hướng về về phía tiệm vàng K L Đ. S đi vào đứng trước tủ kính kích thước (1,2 x 1,95 x 4,08)m đang trưng bày các kim loại vàng. Thấy S vào, chị Tống Thị L là chủ tiệm vàng đi ra. S nói: “chị cho em xem nhẫn nam” đồng thời chỉ tay vào một chiếc nhẫn (bên trong lòng vành nhẫn có khắc chữ C.610 TKJ, mặt chính nhẫn có trạm trổ hình con rồng, viền trên dưới có đính gắn đá màu trắng sáng, mặt hai bên có trạm trổ hình hai con chim), chị L lấy 01 chiếc nhẫn đưa cho S cầm đeo thử vào ngón áp út bên trái, S nói tiếp: “chị cho em xem tiếp hai sợi dây chuyền vàng để lựa chọn mua”, chị L tiếp tục lấy trong tủ kính ra hai dây chuyền vàng (01 dây chuyền vàng ở đầu khóa khắc chữ TKJ 610, đính kèm tem giấy xác định trọng lượng vàng là 1,0983 lượng, vàng Hàn Quốc, được cấu tạo bởi 09 mắt xích hộp chữ nhật có khắc chữ “Phát Tài” đan xen với 10 đoạn măt xích và 01 dây chuyền khắc chữ TKJ 610 cấu tạo gồm 09 mắt chạm trổ hình con rồng đan xen với 10 dây mắt xích tính cả đầu nối). S cầm xem một lúc rồi nói với chị L: “Chị tính tiền cho em 02 dây chuyền này và chiếc nhẫn”, chị L lấy giấy bút và máy tính ra ghi thì S nói tiếp: “ở đây có nhận chuyển khoản không” chị L trả lời: “ở đây có nhận chuyển khoản anh ạ”. S nhìn chị L, quan sát một lúc, thấy chị L không để ý đến mình và đứng trong quầy nên S cầm 02 cầm hai sợi dây chuyền vàng cùng 01 chiếc nhẫn đang đeo trên tay vụt chạy ra đường Quốc lộ 14 hướng về huyện Đ M để tẩu thoát. Lúc này chị L truy hô “cướp cướp”, thì anh Trần Văn Đ (chồng chị L) chạy ra đuổi theo S. S chạy vào đường đất cấp phối, tiếp tục rẽ vào đường đất ở bên hông cổng chợ huyện Đ S, ném số vàng chiếm đoạt được vào bụi cỏ rồi trốn dưới gầm xe tải. Anh Đ cùng người dân xung quanh truy đuổi sau đó bắt giữ được Hà S cùng vật chứng.

Tại Kết luận giám định số: 1812/KL-KTHS ngày 23/12/2022 của Phân Viện Khoa học Hình sự tại Thành phố Đà Nẵng kết luận:

Phần kim loại màu vàng của 01 chiếc nhẫn (bằng kim loại màu vàng, bên trong lòng nhẫn có khắc chữ và số “C.610TKJ”, mặt ngoài ở chính giữa nhẫn có khắc hình con rồng, viền trên và viền dưới có đính 16 hạt chất màu trắng, ở hai mặt bên cạnh có khắc hình con chim) , gửi giám định có kim loại vàng (Au), hàm lượng kim loại vàng là 61,0%; tổng khối lượng mẫu là 10,85 gam, trong đó: khối lượng phần kim loại màu vàng là 10,77 gam, khối lượng các hạt chất màu trắng là 0,08 gam.

01 (một) sợi dây bằng kim loại, màu vàng (gồm 09 mắt xích hình hộp chữ nhật có khắc chữ “PHATTAI” đan xen với 10 đoạn mắt xích, ở phần đầu khóa có chữ và số “TKJ610”, đầu khóa có đính mảnh giấy một mặt có ghi: “Dây Hàn quốc ống 01 lượng TKL: 1,0983 lượng KLV: 1,0983, mặt còn lại ghi CTY TNHH VB TMDV TUẤN KIỆT”) gửi giám định có kim loại vàng (Au), hàm lượng trung bình của kim loại vàng là 61,0%; khối lượng mẫu là 41,18gam.

01 (một) sợi dây bằng kim loại, màu vàng (gồm 09 mắt xích khắc hình con rồng đan xen với 10 đoạn mắt xích, ở phần đầu khóa có khắc chữ và số “TKJ610”) gửi giám định có kim loại vàng (Au), hàm lượng trung bình của kim loại vàng là 61,0%; khối lượng mẫu là 67,04 gam.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số: 01/KL-HĐĐGTS ngày 30/01/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ S kết luận:

Giá trị của 01 chiếc nhẫn kim loại vàng, bên trong lòng nhẫn có khắc chữ và số “C.610TKJ”, mặt ngoài ở chính giữa nhẫn có khắc hình con rồng, viền trên và viền dưới có đính 16 hạt chất màu trắng, ở hai mặt bên cạnh có khắc hình con chim, có hàm lượng kim loại vàng 61,0%, tại thời điểm ngày 02/12/2022 có giá: 10.731.999 đồng.

Giá trị của 01 (một) sợi dây bằng kim loại vàng gồm 09 mắt xích hình hộp chữ nhật có khắc chữ “PHATTAI” đan xen với 10 đoạn mắt xích, ở phần đầu khóa có chữ và số “TKJ610”, đầu khóa có đính mảnh giấy một mặt có ghi: “Dây hàn quốc ống 1 lượng TKL: 1,0983 lượng KLV: 1,0983, mặt còn lại ghi CTY TNHH VB TMDV TUẤN KIỆT, có hàm lượng kim loại vàng là 61% tại thời điểm ngày 02/12/2022 có giá là: 38.641.350 đồng.

Giá trị của 01 (một) sợi dây bằng kim loại vàng gồm: 09 mắt xích khắc hình con rồng đan xen với 10 đoạn mắt xích, ở phần đầu khóa có khắc chữ và số “TKJ610”, có hàm lượng kim loại vàng 61% tại thời điểm ngày 02/12/2022 có giá là: 59.666.685 đồng.

Tổng giá trị của các tài sản bị chiếm đoạt trên là: 109.040.034 đồng (một trăm linh chín triệu không trăm bốn mươi nghìn không trăm ba mươi tư đồng).

Ngày 08/12/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và ra Lệnh tạm giam đối với Hà S, về tội “Cướp giật tài sản” quy định tại khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

Sau khi tiếp nhận người bị khởi tố, tạm giam theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị can Hà S được Nhà tạm giữ Công an huyện Đắk Song bố trí tạm giam tại buồng giam số 07, khu giam B, cùng với những người bị tạm giam gồm: Nguyễn Hồng B, Huỳnh Nhật B và Điểu Bạch H, Tại khu giam giữ (khu B) trong khuôn viên Công an huyện Đắk S ong có 07 buồng giam được đánh số thứ tự từ 01 đến 07; khuôn viên được bao quanh bằng tường gạch, xi măng, phía trên tường có hệ thống dây kẽm gai nối liền và có hệ thống camera an ninh giám sát. 02 tường ngang, kích thước mỗi tường (26 x 0,25 x 5,3)m; 02 tường dọc, kích thước mỗi tường (15,5 x 0,25 x 5,3)m, các tường này xây liền với nhau, có 01 cửa ra vào duy nhất, cửa được làm bằng kim loại, dạng 02 cánh, có móc chốt, kích thước cửa (2,2 x 3,0)m; kho chứa đồ (nằm trong khu B) có kích thước (3,67 x 6,15)m, cách buồng giam số 01 là 04m, cách phòng giam số 07 là 17m; Từ vị trí buồng giam số 07 đến trung tâm tường dài phía sau là 15,7m (vị trí Hà S trèo ra ngoài).

Buồng giam số 07 trong khuôn viên là nơi giam giữ hà S có kết cấu: cách cửa ra vào 11,75m, có 02 cửa ra vào (muốn vào trong buồng giam phải đi qua 02 cửa này), gồm: của thứ nhất được làm bằng kim loại (gắn với tường xi măng), có chốt cửa, kích thước (0,8 x 2,1)m và cách cửa thứ hai 1,6. Cửa thứ 02 của buồng giam được làm bằng kim loại, có chốt kh óa ngoài, kích thước cửa (0,8 x 2,1); buồng giam số 07 được xây bằng gạch, trét xi măng, kích thước (2,1 x 4,3)m.

Khoảng 19 giờ 00 ngày 08/12/2022, B, B và H nói với nhau: thèm thuốc lá ước gì có thuốc hút vì ngoài kho đồ có gói thuốc, quẹt trong quần của B (khi vào nhà tạm giữ được thay cất vào kho đồ nằm trong khuôn viên giam, giam giữ), S hỏi B: “anh để nửa gói thuốc đó chỗ nào” B trả lời: “để trong túi quần short Jean ở góc tường trong phòng thay đồ”, S hỏi tiếp: “còn khoảng bao nhiêu điếu”, B nói: “còn khoảng 10 điếu”, S nói: “có gì sáng mai chia nước sôi em ra lấy cho” (tuy nhiên trước đó thuốc đã được lục soát và cán bộ Nhà tạm giữ đã lấy ra ngoài).

Đến 07 giờ 00 phút, ngày 09/12/2022, đồng chí Nay N, Đội trưởng đội THAHS và HTTP, đồng chí Đào Huy H, cán bộ quản giáo và Nguyễn Thế D, Dương Hoàng Đ (chiến S nghĩa vụ) Công an huyện Đắk Song vào mở cửa các buồng giam, giữ để điểm danh, đồng thời cấp nước và đồ lưu ký. Trong quá trình điểm danh, kiểm tra các buồng giam, có phạm nhân tự giác là Nguyễn Hữu D, Dương Quang Tr, Nguyễn Vĩnh T, Nguyễn Duy L, Hồ Quốc H đi cùng để thực hiện cấp nước, lưu ký và dọn vệ sinh.

Sau khi điểm danh, kiểm tra xong khu C, các đồng chí nay N, Đào Huy Ho, Nguyễn Thế D và 04 phạm nhân tự giác tiếp tục đến kiểm tra buồng giam và cấp đồ lưu ký tại khu B. Tuy nhiên, trước khi vào khu B, đồng chí H được lãnh đạo Công an huyện yêu cầu về làm hồ sơ nên đi ra ngoài còn lại đồng chí Nay N, đồng chí D và 04 phạm nhân tự giác tiếp tục đi vào khu B. Lúc này, đồng chí Nay N đứng ở trước cửa khu B, quan sát các phòng giam, đồng chí D mở cửa buồng giam. theo thứ tự từ số 01 đến số 07, để phạm nhân cấp nước, đưa đồ lưu ký cho người bị tạm giữ, tạm giam, sau đó sẽ quay lại khóa cửa sau. Sau khi mở cửa buồng giam số 07, đồng chí D đi tới buồng giam số 01 để đóng cửa, lợi dụng không có người để ý, Hà S đi ra khỏi buồng giam số 07 rồi đứng sát tường, trốn phía sau cánh cửa thứ nhất ở ngoài cùng đang mở. Khi đồng chí D quay lại, không kiểm tra người trong buồng giam số 07 mà đóng, khóa cửa số 02 lại rồi đi ra ngoài nhưng không khóa cửa thứ nhất ở ngoài cùng (nơi Hà S đang trốn).

Kiểm tra xong khu B, đồng chí N, đồng chí D và 04 phạm nhân khóa cửa khu B lại rồi về làm việc. Lúc này, S quan sát thấy lực lượng Công an đã ra ngoài nên đứng ngoài cánh cửa buồng giam số 07 nói vào: “giờ vào bằng cách nào”, Huỳnh Nhật B trong phòng trả lời: “Đợi đến giờ cơm trưa rồi vào”, S tiếp tục quan sát phía ngoài rồi đến phòng để đồ trong khu B, lục tìm gói thuốc lá nhưng không thấy. Lúc này, S nảy sinh ý định trèo qua tường rào, trốn ra ngoài để về nhà.

S thấy trong kho có nhiều đồ nên lấy áo, quần, dây nịt tại kho, buộc nối các đầu lại tạo thành 01 sợi dây dài khoảng 07m rồi mang ra khu vực tường rào phía Tây khu B. S đứng ở dưới ném 01 đầu dây qua tường rào, để một đầu dây bám vào kẽm gai trên tường, làm điểm cố định rồi bán theo dây, đu người lên tường nhảy ra ngoài khuôn viên nhà tạm giữ. S đi bộ ra đường Quốc lộ 14, đi nhờ xe của một người không rõ nhân thân đến ngã ba Biển Xanh, thuộc tổ S, thị trấn Đ A, tiếp tục đi bộ về hướng xã Đ N’D. S đi tới bản Đ L, xã N J thì nhặt bên lề đường 01 bộ quần áo kiểu rằn ri, màu xanh (đã cũ), mặc vào người, tiếp tục đi nhờ xe đến nhà anh Điểu Mi Ch, sinh năm: 1996, nơi cư trú: Bon B D, xã Đ D, huyện Đ S, tỉnh Đ là người S quen trước đó. S không nói cho anh Điểu Mi Ch biết việc mình vừa trốn khỏi nhà tạm giữ Công an huyện Đắk Song, sau đó xin đồ ăn sáng, mượn xe mô tô biển kiểm soát 34F8 - xxxx và vay 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) của anh Điểu Mi Ch rồi điều khiển xe đi về hướng xã N J, vào cửa hàng tạp hóa bên đường mua 02 chai nước, 01 gói bánh gạo, 01 gói thuốc rồi tiếp tục đi về hướng thôn Đ T, xã Đ D để qua xã Đ B S, huyện T Đ. S sợ bị phát hiện nên khi đến ngã ba thôn Đ T, xã Đ D thì rẽ vào khu vực bãi cỏ hoang trốn tại đó. Trưa ngày 11/12/2022, anh Điểu Mi Ch phát hiện S trốn khỏi nơi bị tạm giam nên đã trình báo đến Công an huyện Đắk Song, đến 14 giờ 30 phút, ngày 11/12/2022, Hà S bị bị lực lượng Công an huyện Đắk Song bắt giữ khi đang lẩn trốn tại thôn Đ T, xã Đ D.

* Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 nhẫn vàng và 02 sợi dây chuyền vàng mà Hà S đã chiếm đoạt của chị Tống Thị L, ngày 17/01/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.

Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát: 48B1-xxxxx mà anh Phạm Trung Đ dùng để chở Hà S đến huyện Đắk Song. Kết quả điều tra xác định chiếc xe trên là tài sản của chị Phạm Thị V đã cho Đ mượn trước đó, ngày 06/12/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song đã ra quyết định trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.

Đối với xe 01 mô tô biển kiểm soát: 34F8-xxxx của anh Điểu Mi Ch đã cho Hà S mượn trước đó. Do anh Điểu Mi Ch không biết việc S trốn khỏi nơi giam, giữ rồi mượn xe làm phương tiện đi lại. Do đó ngày 30/3/2023, Cơ quan CSĐT ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.

Đối với 01 đôi dép màu vàng, kích thước mỗi chiếc (0,1 x 0,25)m; 01 đoạn vải sọc trắng đen, xanh dương, đỏ, dài 7m; 01 đoạn vải sọc trắng đen, một đầu nối liền với 05 dây thắt lưng có tổng chiều dài 7,8m, bị can Hà S đã sử dụng làm công cụ để leo qua tường rào bỏ trốn. Kết quả điều tra xác định là tài sản của Công an huyện Đắk Song, do đó cần trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.

Về trách nhiêm dân sự: Hiện người bị hại Tống Thị L có đơn không yêu cầu bị can Hà S bồi thường thiệt hại nên không xem xét.

Tại bản cáo trạng số 21/CT-VKS-ĐS ngày 27 tháng 4 năm 2023 Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song truy tố bị cáo Hà S về các tội “ Cướp giật tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 171 và tội: “ trốn khỏi nơi giam, giữ” theo khoản 1 Điều 386 Bộ luật Hình sự.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo Hà S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và thừa nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đăk Nông truy tố là đúng, không oan.

Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Vì muốn có tiền để trả nợ và tiêu xài cá nhân nên khoảng 18 giờ 00’ ngày 02/12/2022, Hà S từ huyện T Đ, đến tiệm vàng K L Đ của chị Tống Thị L, tại tổ 2, thị trấn Đ An, huyện Đắk Song, tỉnh Đ, vào giả vờ hỏi mua vàng, sau đó yêu cầu chị L đưa cho S 01 nhẫn vàng và 02 sợi dây chuyền vàng để xem và đeo thử vào tay. Lợi dụng lúc chị L mất cảnh giác, Hà S đã cầm 01 nhẫn vàng và 02 sợi dây chuyển vàng rồi bỏ chạy ra đường Quốc lộ 14 để tẩu thoát thì bị bắt giữ cùng vật chứng. Kết quả định giá xác định: tổng giá trị thiệt hại là: 109.040.034 đồng (một trăm linh chín triệu không trăm bốn mươi nghìn không trăm ba mươi tư đồng).

Ngày 08/12/2022, Hà S bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song khởi tố về tội Cướp giật tài sản, bị tạm giam tại buồng giam số 07, nhà tạm giữ Công An huyện Đắk Song. Khoảng 07 giờ 30’ ngày 09/12/2022, lợi dụng việc cán bộ, quản giáo Nhà tạm giữ Công an huyện Đắk Song mở cửa buồng giam để tiếp nước, đưa lưu ký và làm vệ sinh không để ý, Hà S đã bí mật lẻn ra khỏi buồng giam số 07, trốn sau cánh cửa phía ngoài, đợi cán bộ nhà tạm giữ ra ngoài, S đã dùng quần, áo, dây nịt kết thành 01 sợi dây dài khoảng 07m, ném 01 đầu dây lên tường rào nhà tạm giữ để cố định một đầu rồi đu theo dây ra khỏi khuôn viên nhà tạm giữ bỏ trốn. Đến ngày 11/12/2022, Hà S bị lực lượng Công an huyện Đắk Song bắt giữ trong khi đang lẩn trốn tại thôn Đ T, xã Đ D, huyện Đ S, tỉnh Đ.

Hành vi của bị cáo Hà S đã đủ yếu tố cấu thành các tội “Cướp giật tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 171 và tội: “ trốn khỏi nơi giam, giữ” theo khoản 1 Điều 386 Bộ luật Hình sự.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Hà S về các tội:“ Cướp giật tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 171 và tội: “ Trốn khỏi nơi giam, giữ” theo khoản 1 Điều 386 Bộ luật Hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình; bị cáo được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 171; khoản 1 Điều 386; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 (khoản 2 Điều 51 áp dụng đối với tội cướp giật tài sản)và Điều 55 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Hà S từ 04 (Bốn) năm 06 ( Sáu) tháng đến 05 (Năm) năm tù về tội “ Cướp giật tài sản” và 09 (Chín) tháng đến 12 (Mười hai) tháng tù về tội: “ Trốn khỏi nơi giam, giữ” Áp dụng điều 55 của Bộ luật hình sự: Buộc bị cáo Hà S phải chấp hành chung hình phạt với mức án từ 05 (Năm ) năm 03 (Ba) tháng tù đến 06 (Sáu) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11/12/2022. Khấu trừ đi thời gian bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 02/12/2022 đến ngày 09/12/2022.

* Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Chấp nhận cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại với 01 nhẫn vàng và 02 sợi dây chuyền vàng mà Hà S đã chiếm đoạt của chị Tống Thị L là cho chủ sở hữu hợp pháp;

01 xe mô tô biển kiểm soát: 48B1-xxxxx mà anh Phạm Trung Đ dùng để chở Hà S đến huyện Đ S. Kết quả điều tra xác định chiếc xe trên là tài sản của chị Phạm Thị V; 01 mô tô biển kiểm soát: 34F8-xxxx của anh Điểu Mi Ch đã cho Hà S mượn trước đó. Do anh Điểu Mi Ch không biết việc S trốn khỏi nơi giam, giữ rồi mượn xe làm phương tiện đi lại cho chủ sở hữu hợp pháp.

Đối với 01 đôi dép màu vàng, kích thước mỗi chiếc (0,1 x 0,25)m; 01 đoạn vải sọc trắng đen, xanh dương, đỏ, dài 7m; 01 đoạn vải sọc trắng đen, một đầu nối liền với 05 dây thắt lưng có tổng chiều dài 7,8m, bị can Hà S đã sử dụng làm công cụ để leo qua tường rào bỏ trốn. Kết quả điều tra xác định là tài sản của Công an huyện Đắk Song, do đó cần trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.

Phần tranh luận bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người bị hại xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự : Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ kết luận: Vì muốn có tiền để trả nợ và tiêu xài cá nhân nên khoảng 18 giờ 00’ ngày 02/12/2022, Hà S từ huyện T Đ, đến tiệm vàng K L Đ của chị Tống Thị L tại tổ 2, thị trấn Đ A, huyện Đ S, tỉnh Đ, vào giả vờ hỏi mua vàng, sau đó yêu cầu chị L đưa cho S 01 nhẫn vàng và 02 sợi dây chuyền vàng để xem và đeo thử vào tay. Lợi dụng lúc chị L mất cảnh giác, Hà S đã cầm 01 nhẫn vàng và 02 sợi dây chuyển vàng rồi bỏ chạy ra đường Quốc lộ 14 để tẩu thoát thì bị bắt giữ cùng vật chứng; Tại Kết luận giám định số: 1812/KL-KTHS ngày 23/12/2022 của Phân Viện Khoa học Hình sự tại Thành phố Đà Nẵng kết luận:

Phần kim loại màu vàng của 01 chiếc nhẫn (bằng kim loại màu vàng, bên trong lòng nhẫn có khắc chữ và số “C.610TKJ”, mặt ngoài ở chính giữa nhẫn có khắc hình con rồng, viền trên và viền dưới có đính 16 hạt chất màu trắng, ở hai mặt bên cạnh có khắc hình con chim) , gửi giám định có kim loại vàng (Au), hàm lượng kim loại vàng là 61,0%; tổng khối lượng mẫu là 10,85 gam, trong đó: khối lượng ph ần kim loại màu vàng là 10,77 gam, khối lượng các hạt chất màu trắng là 0,08 gam.

01 (một) sợi dây bằng kim loại, màu vàng (gồm 09 mắt xích hình hộp chữ nhật có khắc chữ “PHATTAI” đan xen với 10 đoạn mắt xích, ở phần đầu khóa có chữ và số “TKJ610”, đầu khóa có đính mảnh giấy một mặt có ghi: “Dây Hàn quốc ống 01 lượng TKL: 1,0983 lượng KLV: 1,0983, mặt còn lại ghi CTY TNHHV VB TMDV TUẤN KIỆT”) gửi giám định có kim loại vàng (Au), hàm lượng trung bình của kim loại vàng là 61,0%; khối lượng mẫu là 41,18gam.

01 (một) sợi dây bằng kim loại, màu vàng (gồm 09 mắt xích khắc hình con rồng đan xen với 10 đoạn mắt xích, ở phần đầu khóa có khắc chữ và số “TKJ610”) gửi giám định có kim loại vàng (Au), hàm lượng trung bình của kim loại vàng là 61,0%; khối lượng mẫu là 67, 04 gam.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số: 01/KL-HĐĐGTS ngày 30/01/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ S kết luận Giá trị của 01 chiếc nhẫn kim loại vàng, bên trong lòng nhẫn có khắc chữ và số “C.610TKJ”, mặt ngoài ở chính giữa nhẫn có khắc hình con rồng, viền trên và viền dưới có đính 16 hạt chất màu trắng, ở hai mặt bên cạnh có khắc hình con chim, có hàm lượng kim loại vàng 61,0%, tại thời điểm ngày 02/12/2022 có giá: 10.731.999 đồng.

Giá trị của 01 (một) sợi dây bằng kim loại vàng gồm 09 mắt xích hình hộp chữ nhật có khắc chữ “PHATTAI” đan xen với 10 đoạn mắt xích, ở phần đầu khóa có chữ và số “TKJ610”, đầu khóa có đính mảnh giấy một mặt có ghi: “Dây hàn quốc ống 1 lượng TKL: 1,0983 lượng KLV: 1,0983, mặt còn lại ghi CTY TNHHV VB TMDV TUẤN KIỆT, có hàm lượng kim loại vàng là 61% tại thời điểm ngày 02/12/2022 có giá là: 38.641.350 đồng.

Giá trị của 01 (một) sợi dây bằng kim loại vàng gồm: 09 mắt xích khắc hình con rồng đan xen với 10 đoạn mắt xích, ở phần đầu khóa có khắc chữ và số “TKJ610”, có hàm lượng kim loại vàng 61% tại thời điểm ngày 02/12/2022 có giá là: 59.666.685 đồng.

Tổng giá trị của các tài sản bị chiếm đoạt trên là: 109.040.034 đồng (một trăm linh chín triệu không trăm bốn mươi nghìn không trăm ba mươi tư đồng).

Ngày 08/12/2022, Hà S bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song khởi tố về tội Cướp giật tài sản, bị tạm giam tại buồng giam số 07, nhà tạm giữ Công An huyện Đắk Song. Khoảng 07 giờ 30’ ngày 09/12/2022, lợi dụng việc cán bộ, quản giáo Nhà tạm giữ Công an huyện Đắk Song mở cửa buồng giam để tiếp nước, đưa lưu ký và làm vệ sinh không để ý, Hà S đã bí mật lẻn ra khỏi buồng giam số 07, trốn sau cánh cửa phía ngoài, đợi cán bộ nhà tạm giữ ra ngoài, S đã dùng quần, áo, dây nịt kết thành 01 sợi dây dài khoảng 07m, ném 01 đầu dây lên tường rào nhà tạm giữ để cố định một đầu rồi đu theo dây ra khỏi khuôn viên nhà tạm giữ bỏ trốn. Đến ngày 11/12/2022, Hà S bị lực lượng Công an huyện Đắk Song bắt giữ trong khi đang lẩn trốn tại thôn Đ T, xã Đ D, huyện Đ S, tỉnh Đ.

Vì vậy, hành vi của bị cáo Hà S đã đủ yếu tố cầu thành các tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 171 và tội: “ Trốn khỏi nơi giam, giữ” theo khoản 1 Điều 386 Bộ luật Hình sự. Tại điểm c khoản 2 Điều 171 và khoản 1 Điều 386 của bộ luật hình sự quy định:

Điều 171 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a)… c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.

3) … Điều 386 Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào đang bị tạm giữ, tạm giam, áp giải, xét xử hoặc chấp hành án phạt tù mà bỏ trốn, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. … [3] Xét về tính chất mức độ và hậu quả của hành vi của bị cáo: Bị cáo đã trực tếp xâm phạm về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ và xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan bảo vệ pháp luật, gây khó khăn trong việc thi hành án hình sự mà còn ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Hành vi của bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng. bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được xâm phạm tài sản của người khác và trốn khỏi nơi giam là hành vi rất nguy hiểm và bị pháp luật trừng trị rất nghiêm khắc nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Do đó,HĐXX xét thấy cần phải xử phạt bị cáo một hình phạt tương xứng với tính chất mức độ, hành vi bị cáo gây ra; cần phải cách ly các bị cáo ra khởi đời sống xã hội trong khoảng thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội sau này.

[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, tại phiên tòa ngày hôm nay người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đây các là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên cần xem xét áp dụng.

Do bị cáo phạm hai tội nên cần áp dụng điều 55 của Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành.

[5] Trong vụ án này, Đối với anh Điểu Mi Ch đã cho Hà S mượn xe mô tô 34F8-xxxx sau khi trốn khỏi nhà tạm giữ, do anh Điểu Mi Ch không biết việc S trước đó đã bị khởi tố, tạm giam rồi trốn khỏi nhà tạm giữ nên không xem xét xử lý.

Đối với Điểu Bạch H, Nguyễn Hồng B, Huỳnh Nhật B là những người bị giam chung với bị can Hà S tại buồng giam số 07, biết việc Hà S ra khỏi buồng giam, tuy nhiên các đối tường này nghĩ Hà S ra khỏi buồng giam là để đi lấy thuốc lá, vì vậy các đối tượng này không đồng phạm với Hà S và không cấu thành tội không tố giác tội phạm.

Đối với chỉ huy, cán bộ quản giáo và chiến Sỹ nghĩa vụ Nhà tạm giữ Công an huyện Đ S chưa thực hiện đúng nhiệm vụ canh gác, bảo vệ để người bị tạm giam trốn khỏi nơi giam, giữ. Xét thấy vụ việc có dấu hiệu của tội phạm phạm hoạt động tư pháp, thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan khác, do đó cần tách tra để chuyển cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại bà Tống Thị L đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không xem xét giải quyết

[7] Về vật chứng vụ án: Chấp nhận cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Song đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại với 01 nhẫn vàng và 02 sợi dây chuyền vàng mà Hà S đã chiếm đoạt của chị Tống Thị L là cho chủ sở hữu hợp pháp; 01 xe mô tô biển kiểm soát: 48B1-xxxxx mà anh Phạm Trung Đ dùng để chở Hà S đến huyện Đắk Song. Kết quả điều tra xác định chiếc xe trên là tài sản của chị Phạm Thị V; 01 mô tô biển kiểm soát: 34F8-xxxx của anh Điểu Mi Ch đã cho Hà S mượn trước đó. Do anh Điểu Mi Ch không biết việc S trốn khỏi nơi giam, giữ rồi mượn xe làm phương tiện đi lại cho chủ sở hữu hợp pháp.

Đối với 01 đôi dép màu vàng, kích thước mỗi chiếc (0,1 x 0,25)m; 01 đoạn vải sọc trắng đen, xanh dương, đỏ, dài 7m; 01 đoạn vải sọc trắng đen, một đầu nối liền với 05 dây thắt lưng có tổng chiều dài 7,8m, bị can Hà S đã sử dụng làm công cụ để leo qua tường rào bỏ trốn. Kết quả điều tra xác định là tài sản của Công an huyện Đ S, do đó cần trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp.

[8] Về hình phạt bổ sung: Xét về hoàn cảnh kinh tế của bị cáo thể hiện bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không thu nhập ổn định nên HĐXX không xem xét áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố Nhà Nước tại phiên tòa hôm nay đối với bị cáo là có căn cứ và cần chấp nhận.

[10] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hà S phạm các tội: “ Cướp giật tài sản” và “ Trốn khỏi nơi giam, giữ”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 171 và khoản 1 Điều 386; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự Xử phạt: Bị cáo Hà S 04 (Bốn ) năm 09 (Chín) tháng tù về tội “ Cướp giật tài sản” và 09 (Chín) tháng tù về tội “ Trốn khỏi nơi giam, giữ” Áp dụng Điều 55 của Bộ luật hình sự: Buộc bị cáo Hà S phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 05(Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tam giam ngày 11/12/2022. Khấu trừ đi thời gian bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/12/2022 đến ngày 09/12/2022.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự;

khoản 1 khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Trả lại 01 đôi dép màu vàng, kích thước mỗi chiếc (0,1 x 0,25)m; 01 đoạn vải sọc trắng đen, xanh dương, đỏ, dài 7m; 01 đoạn vải sọc trắng đen, một đầu nối liền với 05 dây thắt lưng có tổng chiều dài 7,8m, bị can Hà S đã sử dụng làm công cụ để leo qua tường rào bỏ trốn cần trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là Công an huyện Đ S.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14. Buộc bị cáo Hà S phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến mình trong thời hạn 15 ngày kể ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết tại chính quyền địa phương. Nguyên đơn dân sự có quyền kháng cáo phần bản án về phần tài sản của nguyên đơn trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết tại chính quyền địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản và trốn khỏi nơi giam, giữ số 16/2023/HS-ST

Số hiệu:16/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;