Bản án về tội cướp giật tài sản số 92/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN T, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 92/2021/HS-ST NGÀY 06/07/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ: 09 đường Phú Hòa, Phường 07, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 89/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 93/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2021/HSST-QĐ ngày 22 tháng 6 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Danh Hoài S (tên gọi khác: Tút), sinh ngày 21 tháng 7 năm 2004, nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 21/11 đường Bùi Thế Mỹ, Phường X, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Như trên; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Khơ me; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Danh D và bà Lâm Thị Sa P; gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con út; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị bắt phạm tội quả tang ngày 01/01/2021 (có mặt).

2. Cao Phước D, sinh ngày 20 tháng 4 năm 2006, nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 1992/6A đường Hồng Lạc, Phường X, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 2/5 đường Lê Văn Phan, phường P, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Học sinh; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Q và bà Phạm Thị T; gia đình có 03 anh em, bị cáo là con út; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 06/01/2021 đến nay (có mặt).

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Danh Hoài S: Ông Danh D và bà Lâm Thị Sa P, trú tại: 21/11 đường Bùi Thế Mỹ, Phường X, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh là cha mẹ của bị cáo (có mặt).

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Cao Phước D: Ông Cao Q và bà Phạm Thị T, trú tại: 2/5 đường Lê Văn Phan, phường P, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh là cha mẹ của bị cáo (có mặt).

- Người bào chữa cho các bị cáo: Bà Nguyễn Thị Kim L, Luật sư Công ty Luật TNHH Một thành viên Vũ H thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho các bị cáo Danh Hoài S và Cao Phước D (có mặt).

- Bị hại:

+ Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1995 Địa chỉ: 167A đường Trần Văn Quang, Phường X, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

+ Đặng Chí T, sinh ngày: 14/12/2003 Địa chỉ: 354/54 đường Lý Thường Kiệt, Phường D, Quận V, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

- Người đại diện hợp pháp của bị hại Đặng Chí T: Bà Đặng Kim Trúc, trú tại: 354/54 đường Lý Thường Kiệt, Phường D, Quận V, Thành phố Hồ Chí Minh là mẹ đẻ của trẻ Đặng Chí T (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Phạm Quốc T, sinh ngày: 01/01/2008; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 66/22B đường Trần Văn Quang, Phường X, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 325/4 Kênh Tân Hóa, phường Hòa Thạnh, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

- Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Phạm Quốc T và bà Võ Thị Kim N; trú tại: 325/4 Kênh Tân Hóa, phường Hòa Thạnh, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh là cha mẹ của Phạm Quốc T (vắng mặt).

- Người làm chứng:

+ Ông Trần Tiến T, sinh năm: 1975 Địa chỉ: 1036/44 đường Cách Mạng Tháng Tám, Phường X, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

+ Bà Nguyễn Thị S, sinh năm: 1968 Địa chỉ: 1036/56 đường Cách Mạng Tháng Tám, Phường X, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 01/01/2021, Danh Hoài S nhắn tin trên Facebook rủ Cao Phước D đi uống cà phê, D đồng ý. D chạy chiếc xe gắn máy Honda Lead, biển số 59P1-X đến đón S tại một tiệm Internet trên đường Hồng Lạc, quận T, sau đó cả hai chạy xe tìm bạn của S nhưng không gặp. Khoảng 13 giờ 15 phút cùng ngày, khi S đang điều khiển xe chở D vào hẻm số 1036 Cách Mạng Tháng 8 thì thấy em Đặng Chí T đang đi bộ trong hẻm, trên tay cầm chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus 64GB. Thấy vậy, S nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại trên, S rủ D giật chiếc điện thoại của anh T, D đồng ý. Khi chạy xe đến cuối hẻm, S dừng xe và kêu D lên điều khiển xe để S ngồi sau giật tài sản. Khi đến trước số 1036/34 Cách Mạng Tháng 8, Phường 5, quận T, D chạy xe áp sát phía bên phải em Thiện, S ngồi sau dùng tay phải giật chiếc điện thoại Iphone 8 Plus. Thấy S đã giật được điện thoại, D liền tăng ga bỏ chạy nhưng bị em Thiện chạy bộ đuổi theo và tri hô. Lúc này tổ tuần tra Công an quận T phát hiện cùng quần chúng nhân dân truy đuổi bắt giữ S và D cùng tang vật.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận T, Danh Hoài S và Cao Phước D đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Ngoài ra, S còn khai nhận vào khoảng 14 giờ 24 phút ngày 20/12/2020, Phạm Quốc T đang ngồi uống nước với nhóm bạn tên B, M, Khôn Đ, Nhật M (không rõ lai lịch) tại quán Góc Phố trên đường Lê Ngã, Phường Phú Trung, quận TP thì S được một người bạn chở đến uống nước với nhóm của T. Sau đó, S rủ cả nhóm đi lòng vòng chơi, T, B, M và Khôn Đ đồng ý, còn Nhật M ở lại quán ngồi chơi với bạn. B chạy xe đạp điện chở T với M còn Khôn Đ chạy xe máy chở S. Khi đến ngã ba đường Âu Cơ - Trần Văn Quang, S nói T qua chạy xe máy chở S, T đồng ý còn Khôn Đ qua đi cùng B và M trên chiếc xe đạp điện. Khi T điều khiển xe máy, S nói T quay xe lại hướng đường Trần Văn Quang (lúc này Khôn Đ, B, M đi riêng, không đi chung với T và S). Khi đến trước số 167A Trần Văn Quang, Phường X, quận T, S nhìn thấy anh Nguyễn Văn T đang đứng trước cửa nhà, trên tay cầm chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy Note 10. S rủ T giật chiếc điện thoại của anh Thời, T đồng ý. T điều khiển xe quay lại chạy áp sát vào anh Thời, S ngồi sau dùng tay phải giật chiếc điện thoại Samsung Galaxy Note 10, T tăng ga bỏ chạy, sau đó cả hai đem bán chiếc điện thoại được 4.500.000 đồng, S cho T 100.000 đồng, số tiền còn lại S đã tiêu xài cá nhân.

Phạm Quốc T khai: Chiều ngày 20/12/2020, T cùng với nhóm bạn gồm B, M, Khôn Đ và Nhật M (không rõ lai lịch) ngồi uống cà phê tại quán Góc Phố trên đường Lê Ngã, phường Phú Trung, quận TP thì Danh Hoài S được một người bạn chở qua và ngồi uống nước chung với nhóm của T. Sau khi uống nước xong, S rủ cả nhóm đi lòng vòng chơi, T, B, M và Khôn Đ đồng ý còn Nhật M ở lại quán ngồi chơi với bạn. B chạy xe đạp điện chở T với M, còn Khôn Đ chạy xe máy chở S. Cả nhóm chạy xe lòng vòng trên nhiều tuyến đường trên địa bàn quận TP. Khi đến ngã ba đường Âu Cơ – Trần Văn Quang, Phường X, quận T thì S nói T qua chạy xe máy chở S, T đồng ý, còn Khôn Đ qua đi cùng B với M trên chiếc xe đạp điện. Khi T leo lên xe gắn máy, S kêu T quay đầu xe lại hướng về đường Trần Văn Quang. T điều khiển xe quay đầu lại, S nói áp sát vào một người thanh niên đang đứng dưới lòng lề đường, trên tay đang cầm một chiếc điện thoại di động sử dụng. T điều khiển xe gắn máy áp sát vào người thanh niên về phía bên tay phải của T, khi đến sát người thanh niên, T thấy S có động tác chồm người sang về phía người thanh niên, ngay sau đó S nói T “chạy đi”, T liền tăng ga xe bỏ chạy. Trên đường đi, S nói với T là vừa giật được chiếc điện thoại di động Samsung của người thanh niên trên và nói T chạy đến tiệm điện thoại Lê H nằm trên đường Âu Cơ để bán điện thoại, sau khi bán điện thoại S cho T số tiền 100.000 đồng, T đã sử dụng hết số tiền để chơi game.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus 64GB màu đỏ.

- 01 (một) xe máy hiệu Honda Lead màu vàng biển số: 59P1-X.

- 01 (một) áo sơ mi tay dài màu đỏ, 01 (một) quần lửng màu đen và 01 (một) đôi dép kẹp màu đỏ trắng thu giữ của Danh Hoài S.

- 01 (một) chiếc áo thun tay ngắn màu vàng và 01 (một) chiếc quần đùi thun màu xám xanh thu giữ của Cao Phước D.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, số Imei: 89840480000593402763, kèm một ốp lưng màu đen thu giữ Cao Phước D.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng, số Imei 1: 357623/08/349156/1, số Imei 2: 357623/08/349156/9, một sim điện thoại số 8401200233313434 thu giữ của Danh Hoài S.

- 01 (một) USB màu trắng, đã được niêm phong, bên ngoài có hình dấu của Công an Phường X, quận T.

Theo Kết luận định giá tài sản số 35/HĐĐGTS-TTHS ngày 23 tháng 3 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận T, Thành phố Hồ Chí Minh thì 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 10, đã qua sử dụng có giá trị 10.000.000đ (mười triệu) đồng.

Theo Kết luận định giá tài sản số 36/HĐĐGTS-TTHS ngày 23 tháng 3 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận T, Thành phố Hồ Chí Minh thì 01 (một) điện thoại di động hiệu iPhone 8 Plus 64GB, đã qua sử dụng có giá trị 7.500.000đ (bảy triệu năm trăm nghìn) đồng.

Bản cáo trạng số 90/CTr-VKS-TB ngày 31 tháng 5 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo Danh Hoài S và Cao Phước D về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và tranh luận: Vì mục đích tư lợi, Danh Hoài S và Cao Phước D đã có hành vi sử dụng xe gắn máy thực hiện cướp giật chiếc điện thoại di động hiệu iPhone 8 Plus 64GB trị giá 7.500.000 đồng của em Đặng Chí T vào ngày 01/01/2021 tại Phường 5, quận T. Đồng thời, Danh Hoài S và Phạm Quốc T đã có hành vi sử dụng xe gắn máy thực hiện cướp giật chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 10 trị giá 10.000.000 đồng của anh Nguyễn Văn T vào ngày 20/12/2020 tại Phường X, quận T. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Danh Hoài S và Cao Phước D về tội cướp giật tài sản. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo S phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo S phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại và bị hại có đơn bãi nại đối với bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo D phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo S đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Viện kiểm sát thấy rằng số tiền bồi thường cho bị hại anh Nguyễn Văn T là do gia đình bị cáo S tự nguyện bồi thường, bị cáo hoàn toàn không tác động để gia đình bồi thường nên chỉ xem xét đây là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị của Luật sư cho rằng cần áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để xử phạt các bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng và áp dụng Điều 36 Bộ luật Hình sự phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo D là không phù hợp với hành vi, tính chất phạm tội của các bị cáo, Viện kiểm sát nhận thấy đã xem xét đầy đủ để đưa ra mức án phù hợp đối với các bị cáo, việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo D là không hiệu quả, bản thân gia đình bị cáo không quản lý được. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; Điều 17; Điều 38; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 và khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Danh Hoài S từ 03 (ba) năm đến 04 (bốn) năm tù.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; Điều 17; Điều 38; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 và khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Cao Phước D từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định.

Về phần dân sự: Bị hại anh Đặng Chí T đã nhận lại chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus 64GB nên không có yêu cầu bồi thường. Bị hại anh Nguyễn Văn T đã nhận số tiền bồi thường 5.000.000 đồng nên không còn yêu cầu bồi thường gì.

Luật sư Nguyễn Thị Kim L bào chữa cho các bị cáo Danh Hoài S, Cao Phước D và các bị cáo tự bào chữa: Nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, truy tố các bị cáo Danh Hoài S và Cao Phước D về tội cướp giật tài sản, Luật sư thống nhất tội danh theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Tuy nhiên, Luật sư cũng đề nghị xem xét khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo còn trong độ tuổi vị thành niên, suy nghĩ còn nông cạn, thiếu chín chắn, không kiềm chế được hành vi của bản thân. Bản thân các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, trình độ văn hóa thấp nên hiểu biết pháp luật không cao dẫn đến chưa nhận thức toàn diện đối với hành vi của mình. Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp giản đơn, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại, bị cáo S đã bồi thường cho bị hại, các bị cáo có nhân thân tốt, có địa chỉ rõ ràng. Bị cáo S thuộc thành phần lao động nghèo, là người dân tộc Khơme, không được gia đình dạy dỗ, giáo dục, quan tâm chăm sóc chu đáo. Bị cáo D khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật tuổi đời còn rất nhỏ chỉ mới 14 tuổi 8 tháng, vì nghe theo lời bạn bè xấu nên dẫn đến phạm tội, hiện nay bị cáo đang học lớp 9 Trường Trung học cơ sở Trần Văn Quang, đang chờ chuẩn bị thi tốt nghiệp, bị cáo cũng có thành tích tốt trong học tập và được nhận giấy khen. Viện kiểm sát đề nghị áp dụng hình phạt tù và cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian quá dài đối với trường hợp các bị cáo còn trong độ tuổi vị thành niên không thể hiện tính nhân văn cao, vô hình chung có thể làm cho các bị cáo ảnh hưởng nặng nề về mặt tâm lý, sẽ không tốt cho các bị cáo trong quá trình phát triển nhân cách sau này. Việc cho các bị cáo mức hình phạt phù hợp, vừa phải, vừa bảo đảm tính khách quan, vừa bảo đảm tính nghiêm minh, vừa thể hiện sự nhân đạo và khoan hồng của pháp luật nhằm tạo điều kiện cho các bị cáo sớm có cơ hội trở về học tập, lao động kiếm sống, hòa nhập cộng đồng và trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Với những phân tích trên, Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 90; Điều 91 và Điều 101 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo S. Riêng bị cáo D đề nghị áp dụng Điều 36 Bộ luật Hình sự phạt cải tạo không giam giữ. Đối với tài sản, đồ vật thu giữ là chiếc điện thoại di động hiệu Samsung, quần áo và dép, tại phiên tòa bị cáo S không yêu cầu nhận lại. Riêng chiếc điện thoại hiệu Iphone 8 Plus, bị cáo D đề nghị trả lại cho bị cáo còn quần áo bị cáo không yêu cầu được nhận lại.

Ý kiến của người đại diện hợp pháp của các bị cáo Danh Hoài S và Cao Phước D: Thống nhất với phần bào chữa của Luật sư Nguyễn Thị Kim L bào chữa cho các bị cáo. Đại diện hợp pháp của các bị cáo không tranh luận.

* Lời nói sau cùng của các bị cáo:

Bị cáo S: Thời gian tạm giam bị cáo đã ăn năn hối cải, chỉ mong Hội đồng xét xử xem xét chiếu cố giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về gia đình để làm lại cuộc đời.

Bị cáo D: Bị cáo thấy hành vi của mình là sai trái, bị cáo gửi lời xin lỗi đến cha mẹ bị cáo, chỉ xin Hội đồng xét xử chiếu cố giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Công an quận T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, đại diện hợp pháp của bị cáo, Luật sư bào chữa cho bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thực nghiệm điều tra cùng với các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án, đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 20/12/2020, Danh Hoài S cùng với Phạm Quốc T sử dụng xe gắn máy thực hiện hành vi chạy áp sát anh Nguyễn Văn T đang đứng trước số nhà 167A Trần Văn Quang, Phường X, quận T, giật chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 10 của anh Thời trị giá 10.000.000 đồng. Với hành vi tương tự, vào khoảng 13 giờ 15 phút ngày 01/01/2021, Danh Hoài S cùng Cao Phước D sử dụng xe gắn máy hiệu Honda Lead, biển số 59P1-X thực hiện hành vi chạy áp sát em Đặng Chí T đang đi bộ trong hẻm 1036 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 5, quận T, giật chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus 64 GB trị giá 7.500.000 đồng rồi nhanh chóng tẩu thoát. Với hành vi trên, các bị cáo Danh Hoài S và Cao Phước D đã phạm tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Viện kiểm sát nhân dân quận T truy tố các bị cáo theo tình tiết định khung “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội. Hành vi do các bị cáo thực hiện là rất táo bạo, liều lĩnh sử dụng xe gắn máy làm phương tiện ngang nhiên cướp giật tài sản của người khác ngay trên đường phố, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của bị hại và của những người đang tham gia giao thông, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bản thân các bị cáo nhận thức được hành vi cướp giật tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì động cơ tư lợi muốn có được tài sản của người khác mà không phải bỏ công sức lao động chân chính của mình làm ra, các bị cáo đã bất chấp thực hiện hành vi phạm tội, cho thấy các bị cáo có thái độ coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc và cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm để răn đe, giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời cũng để bảo đảm đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận T là có căn cứ.

[4] Về vai trò của từng bị cáo trong vụ án: Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, trong bị cáo S với vai trò là người chủ mưu, rủ rê việc thực hiện tội phạm vừa trực tiếp thực hiện tội phạm nên bị cáo giữ vai trò chính, còn bị cáo D đóng vai trò là người giúp sức tích cực dùng phương tiện chở S thực hiện tội phạm. Hội đồng xét xử sẽ căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và mức độ tham gia của từng bị cáo để quyết định mức hình phạt đối với mỗi bị cáo.

[5] Về tính tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo S nhiều lần chiếm đoạt tài sản của các bị hại, trong đó mỗi lần cách nhau một khoảng thời gian nhất định, đều xâm phạm trực tiếp đến cùng một khách thể, mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Do đó, cần áp dụng đối với bị cáo tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo D không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo S được áp dụng tình tiết phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo và bị hại có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được quy định tại điểm h khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo D được áp dụng tình tiết phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo là người dưới 18 tuổi, bản thân bị cáo S là người dân tộc Khơme nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 90, Điều 91 và Điều 101 Bộ luật Hình sự để khi quyết định hình phạt sẽ áp dụng cho các bị cáo được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người phạm tội trên 18 tuổi là phù hợp với chính sách pháp luật dành cho người dưới 18 tuổi phạm tội.

[8] Luật sư bào chữa cho bị cáo S đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy, tại phiên tòa bị cáo S và đại diện hợp pháp của bị cáo khai, việc bồi thường số tiền 3.000.000 đồng cho bị hại anh Nguyễn Văn T là do gia đình bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo, bản thân bị cáo không tác động gia đình để bồi thường cho bị hại. Mặc dù, Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04 tháng 8 năm 2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là văn bản hướng dẫn Bộ luật Hình sự năm 1999 nhưng cho đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào khác có nội dung hướng dẫn mới về quy định này, do đó vẫn áp dụng nghị quyết này. Theo hướng dẫn tại điểm c Mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04 tháng 8 năm 2000 thì đây chỉ có thể xem xét, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về đề nghị của người bào chữa áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo và áp dụng Điều 36 Bộ luật Hình sự phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo D. Như đã lập luận tại đoạn [3], xét thấy mặc dù khi phạm tội, các bị cáo là người dưới 18 tuổi nhưng hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội thuộc trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng, bản thân bị cáo S là đối tượng bỏ học sớm, khi không có tiền tiêu xài thì các bị cáo rủ nhau và chuẩn bị phương tiện để đi cướp giật tài sản thể hiện sự liều lĩnh, xem thường pháp luật. Mức án Luật sư đề nghị là không nghiêm, chưa đánh giá đúng về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của các bị cáo; không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này đang ngày càng gia tăng; không tác dụng giáo dục, không đủ tính răn đe và phòng ngừa chung. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của Luật sư.

[9] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo là người dưới 18 tuổi, theo quy định tại khoản 6 Điều 91 Bộ luật Hình sự không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[10] Về vật chứng: Cơ quan Công an thu giữ 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng, số Imei 1: 357623/08/349156/1, số Imei 2: 357623/08/349156/9, một sim điện thoại số 8401200233313434 là tài sản của bị cáo S, không dùng vào việc phạm tội. Tại phiên tòa bị cáo không yêu cầu được nhận lại chiếc điện thoại nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[10.1] Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, số Imei: 89840480000593402763, kèm một ốp da màu đen là tài sản của bị cáo D, không dùng vào việc phạm tội, cần trả lại cho bị cáo D.

[10.2] Đối với 01 (một) chiếc áo thun tay ngắn màu vàng, 01 (một) chiếc quần đùi thun màu xám xanh, 01 (một) áo sơ mi tay dài màu đỏ, 01 (một) quần lửng màu đen và 01 (một) đôi dép kẹp màu đỏ trắng là đồ vật của các bị cáo. Tại phiên tòa các bị cáo không yêu cầu nhận lại và không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[10.3] Đối với 01 (một) USB màu trắng chứa dữ liệu camera ghi lại hình ảnh Danh Hoài S và Phạm Quốc T thực hiện hành vi cướp giật tài sản tại trước số 167A Trần Văn Quang, Phường X, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 20/12/2020. Xét đây là chứng cứ được dùng làm căn cứ để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo S, vì vậy cần phải giao cho Tòa án nhân dân quận T tiếp tục lưu giữ cùng hồ sơ vụ án.

[10.4] Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus 64GB các bị cáo chiếm đoạt, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận T đã thu hồi trả lại cho bị hại Đặng Chí T theo đúng quy định của pháp luật.

[10.5] Đối với 01 (một) xe máy hiệu Honda Lead màu vàng, biển số: 59P1- X là phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội. Qua điều tra xác minh thể hiện chiếc xe máy trên do bà Phạm Thị T đứng tên giấy chứng nhận đăng ký xe và thuộc sở hữu hợp pháp của bà Thoa. Việc bị cáo D mượn chiếc xe dùng vào việc phạm tội, bà Thoa không biết nên xác định bà Thoa không có lỗi, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận T đã trả lại chiếc xe máy cho bà Thoa đúng quy định.

[11] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Đặng Chí T và đại diện hợp pháp của bị hại có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Về tài sản chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 8 Plus các bị cáo chiếm đoạt, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận T đã thu hồi trả lại cho bị hại. Về phần bồi thường dân sự bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị hại anh Nguyễn Văn T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Anh Thời đã nhận số tiền bồi thường 5.000.000 đồng (trong đó gia đình bị cáo S tự nguyện bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo số tiền 3.000.000 đồng và gia đình Phạm Quốc T bồi thường số tiền 2.000.000 đồng). Về phần bồi thường dân sự đã bồi thường xong, anh Thời không có yêu cầu thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[12] Hành vi của Phạm Quốc T cùng Danh Hoài S thực hiện cướp giật chiếc điện thoại Samsung Galaxy Note 10. Tuy nhiên, do thời điểm thực hiện hành vi phạm tội T chưa đủ 14 tuổi, theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự thì T chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận T không xử lý hình sự đối với T là có căn cứ.

[13] Danh Hoài S và Phạm Quốc T khai sau khi chiếm đoạt chiếc điện thoại Samsung Galaxy Note 10, S và T đã bán chiếc điện thoại cho cửa hàng điện thoại Lê H, tuy nhiên ngoài lời khai của S và T, không còn chứng cứ nào khác. Qua làm việc với Lê Văn Việt (chủ cửa hàng điện thoại Lê H) không thừa nhận và không thu hồi được chiếc điện thoại nên không có căn cứ để xem xét xử lý Lê Văn Việt về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

[14] Đối với các đối tượng B, M, Khôn Đ và Nhật M. Theo S và T khai những người này không biết, không được S và T rủ, không tham gia cùng với T và S chiếm đoạt chiếc điện thoại Samsung Galaxy Note 10, đồng thời chưa xác định được nhân thân lai lịch, khi nào làm rõ nếu có căn cứ sẽ xem xét xử lý sau.

[15] Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[16] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Danh Hoài S và Cao Phước D phạm tội “Cướp giật tài sản”.

- Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; Điều 17; Điều 38; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 90; Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và khoản 1 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xử phạt bị cáo Danh Hoài S 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/01/2021.

Tiếp tục tạm giam bị cáo S để bảo đảm thi hành án.

- Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; Điều 17; Điều 38; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 90; Điều 91 và khoản 2 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Cao Phước D 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc áo thun tay ngắn màu vàng, 01 (một) chiếc quần đùi thun màu xám xanh, 01 (một) áo sơ mi tay dài màu đỏ, 01 (một) quần lửng màu đen và 01 (một) đôi dép kẹp màu đỏ trắng.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng, số Imei 1: 357623/08/349156/1, số Imei 2: 357623/08/349156/9, một sim điện thoại số 8401200233313434. Giao trả 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, số Imei: 89840480000593402763, kèm một ốp da màu đen cho bị cáo Cao Phước D.

Giao một phong bì bên trong có 01 (một) USB màu trắng, đã được niêm phong cho Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh để lưu giữ cùng hồ sơ vụ án.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng ngày 27/5/2021 của Công an quận T, Thành phố Hồ Chí Minh).

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Các bị cáo Danh Hoài S và Cao Phước D mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo và người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 92/2021/HS-ST

Số hiệu:92/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;