TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 92/2021/HSST NGÀY 19/05/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 19 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 71/2021/HSST ngày 29 tháng 04 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 520/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2021, đối với bị cáo:
Lê Ngọc Duy T, sinh ngày 06 tháng 06 năm 1993 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; hộ khẩu thường trú: Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa: 07/12; con ông (Vô danh) và bà Nguyễn Thị Tuyết TH (sinh năm 1960); vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: không;
Nhân thân:
- Ngày 12/8/2011, bị Tòa án nhân dân Quận 3 xử phạt 02 năm tù giam về tội “ Cướp giật tài sản” (bản án số 85/2011/HSST). Ngày 10/11/2012 chấp hành xong hình phạt tù (đã xóa án tích)
- Ngày 08/8/2014, bị Tòa án nhân dân Quận 3 xử phạt 04 năm 06 tháng tù giam về tội “ Cướp giật tài sản” (bản án số 100/2014/HSST). Ngày 27/8/2017 chấp hành xong hình phạt tù (đã xóa án tích) Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 02 tháng 11 năm 2020 (có mặt).
Người tham gia tố tụng khác:
- Bị hại: Ông Nguyễn Nhân C; địa chỉ: Quận 7, Tp. Hồ Chí Minh(vắng mặt)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Bùi Quốc L; địa chỉ: Thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long(vắng mặt)
Người làm chứng: Bà Phạm Nguyễn Thanh V; địa chỉ: Quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 03 giờ 50 phút ngày 01/11/2020, Lê Ngọc Duy T điều khiển xe mô tô hiệu Honda Click màu đen biển kiểm soát 59Y1-997.80 chở Phạm Nguyễn Thanh V lưu thông đến giao lộ Bùi Thị Xuân – Cách Mạng Tháng Tám, phường Bến Thành, Quận 1 thì phát hiện ông Nguyễn Nhân Cđang ngồi trên xe mô tô dựng trên vỉa hè, tay trái cầm điên thoại di động hiệu Iphone XS Max sử dụng. Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên T nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại của ông C, không bàn bạc trao đổi gì với V. T liền điều khiển xe vòng lại đường Bùi Thị Xuân, chạy lên vỉa hè, áp sát từ phía sau bên trái rồi dùng tay phải giật điện thoại di động của ông C rồi tăng ga bỏ chạy. Sau đó, T chở V về nhà ở thuê của T tại địa chỉ số X Trần Bình Trọng, phường 5, Quận Bình Thạnh cất giấu điện thoại vừa chiếm đoạt được. Sau khi bị chiếm đoạt tài sản, ông Nguyễn Nhân C đến Công an phường Bến Thành, Quận 1 trình báo sự việc.
Qua truy xét, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 1 đã bắt tạm giam Lê Ngọc Duy T thu giữ vật chứng cùng phương tiện phạm tội.
Tại Kết luận định giá số 317/KL-HĐĐGTS ngày 28/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Ủy ban nhân dân Quận 1 kết luận 01 điện thoại di động hiệu Iphone Xs Max, màu Vàng (đã qua sử dụng) có trị giá 13.500.000 đồng.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1, Lê Ngọc Duy T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Lời khai của T phù hợp với lời khai của V cùng biên bản đối chất và các tài liệu, chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập được.
Đối với Phạm Nguyễn Thanh V, ngày 01/11/2020, V gặp T ở quán bar tại địa chỉ số X Bùi Thị Xuân, phường Bến Thành, Quận 1, rồi được T chở về nhà ở thuê của T. Hành vi cướp tài giật tài sản do T nảy sinh ý định chiếm đoạt rồi tự thực hiện mà không trao đổi bàn bạc với V nên V không phải là đồng phạm với T, cũng như không có cơ sở để xử lý V về tội “Che giấu tội phạm” và “Không tố giác tội phạm” quy định tại Điều 390 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 1 không xử lý hình sự đối với V.
Vật chứng:
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone Xs Max, Imei: 357273099937924 (đã qua sử dụng), đã thu hồi và trả lại cho ông Nguyễn Nhân C;
- 01 xe mô tô mang biển số 59Y1- 99780 (Số khung: 350XG5309966; Số máy: F350E039966) do bị can Lê Ngọc Duy T đứng tên đăng ký.
- Thu giữ của Lê Ngọc Duy T:
+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone Pro Max, Imei: 353913100476792;
+ 01 xe mô tô mang biển số 59P2- 43870 (Số khung: 001053; Số máy: 1001374). Qua xác minh, được biết: xe mô tô này có biển số 64B2- 21000 do ông Bùi Quốc L (địa chỉ: X Trần Phú, phường 4, tp. Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long; Chứng minh nhân dân số 331367604) đứng tên đăng ký. Ông L khai đã bị mất trộm chiếc xe này tại địa chỉ số 82, đường 17, khu phố 3, phường Hiệp Bình Chánh, Quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Tp. Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh) vào ngày 13/4/2020. Cơ quan CSĐT Công an Quận 1 đã giao xe mô tô trên cho Cơ quan CSĐT Công an Thành phố Thủ Đức thụ lý theo thẩm quyền;
+ 01 áo thun tay ngắn màu đen; 01 quần dài màu xanh; 01 đôi dép màu đen; 01 nón bảo hiểm màu trắng đỏ.
Hiện tất cả vật chứng đang nhập kho Công an Quận 1 tạm giữ.
- Thu giữ của Phạm Nguyễn Thanh V:
+ 01 áo đầm màu trắng; 01 áo sơ mi tay dài, có sọc ca rô; 01 điện thoại hiệu Iphone 11 Pro Max (Imei: 35394710473659) là tài sản của V không liên quan đến vụ án nên Cơ quan CSĐT Công an quận 1 đã trả lại cho V.
Trách nhiệm dân sự: ông Nguyễn Nhân C không có yêu cầu gì.
Tại Cáo trạng số 75/CT-VKS ngày 28 tháng 04 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Ngọc Duy T về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị:
+ Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lê Ngọc Duy T từ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng đến 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”;
+ Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
- Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, thống nhất với nội dung cáo trạng, bản luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Ngọc Duy T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra; phù hợp với các tài liệu, chứng cư khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở xác định: vào khoảng 03 giờ 50 phút ngày 01/11/2020, tại giao lộ Bùi Thị Xuân – Cách Mạng Tháng Tám, Phường Bến Thành, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Ngọc Duy T đã điều khiển xe mô tô biển số 59Y1- 99780 áp sát từ phía sau bên trái ông Nguyễn Nhân C, dùng tay phải giật điện thoại di động hiệu Iphone XS Max màu vàng (đã qua sử dụng, trị giá 13.500.000 đồng) của ông Cường rồi tăng ga bỏ chạy. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “ Cướp giật tài sản ” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Bị cáo nhận T rõ hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vì động cơ tư lợi nên vẫn cố tình thực hiện. Xét, bị cáo có nhân thân xấu nên, từng có 02 tiền án về tội “ Cướp giật tài sản ”. Do đó, cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần đấu tranh, phòng chống tội phạm.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, do đó được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sư năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6] Xét, bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản, không bàn bạc, trao đổi với Phạm Nguyễn Thanh V mà tự thực hiện hành vi phạm tội nên V không phải đồng phạm với bị cáo. Đồng thời, cũng không có cơ sở xử lý V về tội “ Che giấu tội phạm ” hoặc tội “ Không tố giác tội phạm ” quy định tại Điều 389, Điều 390 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 1 không xử lý hình sự đối với V là có căn cứ.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt đã được trả lại cho bị hại, bị hại không có yêu cầu về phần bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, trả lại cho bị cáo các tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội; tịch thu nộp ngân sách nhà nước tài sản là phương tiện phạm tội; tịch thu tiêu hủy các tài sản không còn sử dụng được.
[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc Duy T phạm tội “Cướp giật tài sản”.
- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt Lê Ngọc Duy T 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/11/2020.
- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
Trả lại cho bị cáo Lê Ngọc Duy T: 01 điện thoại di động hiệu Iphone Pro Max, Imei: 353913100476792.
(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 126/20-PNK ngày 07 tháng 12 năm 2020).
Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô mang biển số 59Y1- 99780 (Số khung: 350XG5309966; Số máy: F350E039966) đứng tên chủ sở hữu Lê Ngọc Duy T.
Tịch thu tiêu hủy: 01 áo thun tay ngắn màu đen; 01 quần dài màu xanh;
01 đôi dép màu đen; 01 nón bảo hiểm màu trắng đỏ của Lê Ngọc Duy T.
(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 260/20-PNK ngày 07 tháng 12 năm 2020).
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
- Căn cứ Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
Bị cáo Lê Ngọc Duy T có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 92/2021/HSST
Số hiệu: | 92/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về