Bản án về tội cướp giật tài sản số 85/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 85/2022/HS-ST NGÀY 07/03/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày 07 tháng 3 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 603/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 12 năm 2021; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 72/2022/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2022 đối với:

Bị cáo Nguyễn Văn H; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 15 tháng 7 năm 1992; Nơi sinh: tỉnh Hải Dương; Nơi cư trú: Xã A, huyện B, tỉnh Hải Dương; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Lớp 7/12; Họ tên cha: Nguyễn Văn H1, sinh năm 1971 (đã chết); Họ tên mẹ: Bùi Thị C, sinh năm: 1973 (Còn sống); Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con lớn và chưa có vợ con; Tiền án: Ngày 11 tháng 02 năm 2015, bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 04 năm 06 tháng tù giam về tội “Cướp tài sản”. Ngày 29 tháng 5 năm 2019, bị Tòa án nhân dân Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 26 tháng 5 năm 2021, đến ngày 04 tháng 6 năm 2021 áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa. (Có mặt).

- Bị hại: Nguyễn Thị T, sinh năm: 1965.

Địa chỉ: Tổ C, khu phố D, phường E, thành phố F, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Ngày 23 tháng 5 năm 2021, Nguyễn Văn H đến tiệm tạp hóa nhà của bà Nguyễn Thị T ở tổ C, khu phố D, phường E, thành phố F để đặt mua 20 lít rượu trắng loại 40.000 đồng/01 lít và 10 lít rượu trắng loại 45.000 đồng/01 lít thì bà T đồng ý. Khoảng 09 giờ ngày 25 tháng 5 năm 2021, H điều khiển xe mô tô biển số 54T4-5XXX đi đến nhà bà T để lấy rượu nhưng do không có tiền trả nên H đã nảy sinh ý định chiếm đoạt rượu của bà T. Khi đến nơi thì H nói với bà T không lấy loại rượu đã đặt mua ngày hôm trước mà yêu cầu bà T bán cho H 30 lít rượu loại 50.000 đồng/01 lít. Tưởng thật nên bà T đồng ý. Khi bà T xách 01 can nhựa đựng 30 lít rượu ra đưa cho H thì H để can rượu lên xe rồi giả vờ nói với bà T bán thêm cho H 20 lít rượu nữa nên bà T đồng ý và đi vào trong nhà lấy rượu. Lợi dụng lúc bà T vừa đi vào trong nhà thì H đã điều khiển xe mô tô chở can rượu của bà T bỏ chạy, thấy vậy bà T đã đuổi theo và tri hô thì có 01 người không rõ họ tên, địa chỉ đang điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) đi trên đường đã đuổi theo H đến khu vực tổ 13, khu phố 4A, phường Trảng Dài, thành phố Biên Hòa thì bị tổ tuần tra Công an phường Trảng Dài phát hiện và giữ lại, còn người điều khiển xe mô tô đuổi theo H đã bỏ đi. Sau khi xác minh, Công an phường Trảng Dài đã lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Ngày 26 tháng 5 năm 2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã bắt tạm giữ Nguyễn Văn H để điều tra, xử lý. Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn H đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung nêu trên.

Vật chứng vụ án:

- 01 xe mô tô biển số 54T4-5XXX Nguyễn Văn H sử dụng vào việc phạm tội, quá trình điều tra H khai mượn xe mô tô trên của một người tên N (không rõ họ, địa chỉ). Hiện nay, chưa xác minh được chủ sở hữu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục tạm giữ để xác minh và xử lý sau.

- 01 can rượu 30 lít Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho bà Nguyễn Thị T.

Bản kết luận định giá tài sản số 247/KL-HĐĐGTS ngày 26 tháng 5 năm 2021, của Hội đồng định giá tài sản thành phố Biên Hòa kết luận: “30 lít rượu trắng trị giá 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng)”.

Về dân sự: Bị hại Nguyễn Thị T không yêu cầu bồi thường.

2. Truy tố:

Tại Cáo trạng số: 608/CT-VKSBH ngày 30 tháng 11 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại các điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

Áp dụng các điểm d, i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt Nguyễn Văn H từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù giam.

Bị cáo H có mặt không có ý kiến tranh luận đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

3. Lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã mô tả, nhận thức được hành vi sai trái của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị hại mặc dù đã được Tòa án tống đạt giấy triệu tập và Quyết định đưa vụ án ra xét xử hợp lệ. Tuy nhiên, vắng mặt không có lý do nhưng lời khai của bị hại đã đầy đủ trong hồ sơ vụ án. Việc vắng mặt của bị hại không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Tòa án xét xử vắng mặt bị hại theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Những chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản hỏi cung bị can, kết luận định giá tài sản, biên bản lấy lời khai bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 25 tháng 5 năm 2021, Nguyễn Văn H đã sử dụng xe mô tô biển số 54T4-5XXX để thực hiện hành vi cướp giật của bà Nguyễn Thị T 01 can rượu 30 lít trị giá 750.000đ (bảy trăm năm mươi nghìn đồng) thì bị bắt giữ để điều tra, xử lý.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Cướp giật tài sản” quy định tại các điểm d, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản cáo trạng số 608/CT-VKSBH ngày 30 tháng 11 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo về tội “cướp giật tài sản” theo điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của bị hại được Nhà nước bảo vệ, gây ảnh hưởng trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang trong đời sống của người dân tại các khu dân cư. Bị cáo nghiện rượu và muốn có tiền tiêu xài nhưng lười lao động nên dù biết hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái phép là vi phạm pháp luật mà vẫn thực hiện phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, thể hiện sự xem thường pháp luật.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của phát luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[3] Về vật chứng:

- 01 xe mô tô biển số 54T4-5XXX Nguyễn Văn H sử dụng vào việc phạm tội, quá trình điều tra H khai mượn xe mô tô trên của một người tên N (không rõ họ, địa chỉ). Hiện nay, chưa xác minh được chủ sở hữu nên cần tiếp tục tạm giữ để xác minh và xử lý sau.

- 01 can rượu 30 lít Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho bà Nguyễn Thị T là phù hợp quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự:

Bị hại bà Nguyễn Thị T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên và người tham gia tố tụng tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh nêu trên và đề nghị mức hình phạt phù hợp nên được chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của bị cáo tại phiên tòa được Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ các điểm d, i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Cướp giật tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 03 (ba) năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày 26 tháng 5 năm 2021.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 85/2022/HS-ST

Số hiệu:85/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;