Bản án về tội cướp giật tài sản số 75/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ C, TỈNH C

BẢN ÁN 75/2024/HS-ST NGÀY 07/05/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 5 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 71/2024/HSST ngày 04 tháng 4 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Ngọc S, sinh năm 2006; tên gọi khác: Tủn; tại C; nơi cư trú: số 70/11, Nguyễn Th Năng, khóm 3, phường 4, thành phố C, tỉnh C; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Không biết chữ; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; cha: Nguyễn Ngọc D; mẹ: Không rõ họ tên; vợ, con: Chưa; tiền án: Không; tiền sự: 01 lần, ngày 10/6/2022 bị Tòa án nhân dân thành phố C quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 12 tháng, chấp hành xong ngày 15/7/2023. Nhân thân: Ngày 29/9/2023 bị Tòa án nhân dân thành phố C quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 12 tháng, đang chấp hành; bị cáo có mặt.

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo: Bà Nguyễn Ngọc Ph, sinh năm: 1986; Địa chỉ: số 70/11, Nguyễn Th Năng, khóm 3, phường 4, thành phố C, tỉnh C (cô ruột bị cáo, có mặt)

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Kim Chan ĐR - Luật sư, Cộng tác viên của Trung tâm pháp lý Nhà nước tỉnh C (có mặt).

Bị hại: Lưu Chí Th, sinh ngày 19/4/2022.

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Phan Thị Bích Ng, sinh năm 1989; Địa chỉ: số 89/11, Nguyễn Th Năng, khóm 3, phường 4, thành phố C, tỉnh C (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 13/9/2023, Nguyễn Ngọc S đi bộ từ nhà ở khóm 3, phường 4, thành phố C đến trước nhà số 89/11 đường Nguyễn Th Năng, khóm 3, phường 4, thành phố C nhìn thấy cháu Lưu Chí Th, sinh ngày 19/4/2022 đang cầm 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime 32G trên tay. S nảy sinh ý định chiếm đoạt nên đi vào trong nhà giật lấy điện thoại di động của cháu Th bỏ chạy. Sau đó gia đình bị hại đến Công an trình báo.

Sau khi giật được điện thoại, S đi chơi game. Khoảng 17 giờ cùng ngày, S đến tiệm điện thoại di động ở phường 9, thành phố C mua ốp lưng điện thoại mới gắn vào điện thoại lấy được. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, bà Phan Thị Bích Ng (mẹ ruột của cháu Th) gặp S tại trước chùa Phật Tổ ở phường 4, thành phố C đến chụp áo S nói “sao mày lấy điện thoại của con tao”, S trả lời “con định đem điện thoại trả lại cho dì Ngân”, S khóc và xin lỗi. Ngân lấy điện thoại giao cho Công an, S bị Công an mời làm việc.

Kết luận định giá tài sản số 111/KL-HĐĐGTS ngày 01/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân thành phố C kết luận: “thời điểm ngày 13/9/2023, 01 điện thoại di động hiệu Sam sung J7 32GB đã qua sử dụng có giá là 500.000 đồng”.

Kết luận giám định độ tuổi trên người sống số 53/KLGĐĐT-TTPY ngày 14/12/2023 thể hiện: “Kết quả cận lâm sàng xác định ông Nguyễn Ngọc S có độ tuổi là 17 năm 00 tháng đến 17 năm 06 tháng (tại thời điểm giám định, ngày 13 tháng 12 năm 2023)”.

Bị cáo phạm tội đối với người dưới 16 tuổi. Quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo chưa đủ 18 tuổi.

Vật chứng vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime 32GB, qua xác minh của bà Phan Thị Bích Ng mua cho cháu Lưu Chí Th xem và nghe nhạc; 01 bọc gạo màu đen bên trong có 05kg gạo của Nguyễn Ngọc S, Cảnh sát điều tra Công an thành phố C đã trả lại cho Ngân và S.

- 01 đôi dép lào màu đen, quai màu xanh; 01 nón kết màu vàng; 01 quần đùi vải jean màu đen; 01 áo thun thể thao màu tím có chữ Pink Panther và 01 áo khoác nỉ màu đen tay dài, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã nhập kho vật chứng theo Lệnh nhập kho vật chứng số: 34/LNK-ĐTTH ngày 16/01/2024.

Về dân sự: Gia đình bị hại đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu về trách nhiệm dân sự.

Tại bản cáo trạng số 79/CT-VKS ngày 02 tháng 4 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh C truy tố Nguyễn Ngọc S về tội "Cướp giật tài sản" theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C giữ nguyên cáo trạng truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm g khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91 và Điều 101 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc S từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 đôi dép lào màu đen, quai màu xanh; 01 nón kết màu vàng; 01 quần đùi vải jean màu đen; 01 áo thun thể thao màu tím có chữ Pink Panther và 01 áo khoác nỉ màu đen tay dài .

Ý kiến của bị cáo: Bị cáo thống nhất với cáo trạng và luận tội của Đại diện Viện kiểm sát.

Người bào chữa cho bị cáo tranh luận: Thống nhất với cáo trạng và luận tội của Viện kiểm sát. Luật sư đề nghị Hội đồng xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự do bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc S khai nhận: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 13/9/2023, tại nhà số 89/11 đường Nguyễn Th Năng, khóm 3, phường 4, thành phố C, Nguyễn Ngọc S đã thực hiện hành vi cướp giật 01 điện thoại di động của cháu Lưu Chí Th, sinh ngày 19/4/2022 (chưa đủ 16 tuổi), theo kết luận giám định trị giá tài sản chiếm đoạt 500.000 đồng. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người đại diện hợp pháp của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Do đó, bị cáo đã phạm vào tội "Cướp giật tài sản" theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự, cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng.

[3] Hành vi của các bị cáo Nguyễn Ngọc S là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự ở địa phương. Bị cáo chiếm đoạt tài sản của bị hại Lưu Chí Th, sinh ngày 19/4/2022 (chưa đủ 16 tuổi). Bản thân bị cáo có 01 tiền sự, bị Tòa án nhân dân thành phố C quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Về nhân thân, ngày 29/9/2023 bị Tòa án nhân dân thành phố C quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 12 tháng, chưa chấp hành xong. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần phải áp dụng mức hình phạt phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn (mẹ bị cáo bỏ nhà đi, cha đang chấp hành cai nghiện, bị cáo đang sống với bà nội), trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, tại thời điểm phạm tội bị cáo là người chưa thành niên (trên 16 tuổi đến dưới 18 tuổi) nên mức hình phạt của các bị cáo chỉ áp dụng bằng ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định theo Điều 91, Điều 101 của Bộ luật hình sự, Đại diện Viện kiểm sát và Luật sư đề nghị là phù hợp. Đối với tình tiết giảm nhẹ theo điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, Luật sư đề nghị áp dụng cho bị cáo là chưa phù hợp. Bởi lẽ, mặc dù tài sản bị cáo chiếm đoạt của bị hại không lớn nhưng xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Trường hợp này bị cáo có cấu thành tội phạm về hình thức nên không đồng nhất với hậu quả thiệt hại xảy ra.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoat đã trả cho gia đình bị hại và gia đình bị hại không yêu cầu, Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo 01 đôi dép lào màu đen, quai màu xanh; 01 nón kết màu vàng; 01 quần đùi vải jean màu đen;

01 áo thun thể thao màu tím có chữ Pink Panther và 01 áo khoác nỉ màu đen tay dài. Tại phiên tòa bị cáo không yêu cầu nên tịch thu tiêu hủy (Chi cục thi hành án dân sự thành phố C đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/4/2024).

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 91, Điều 101 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc S phạm tội "Cướp giật tài sản".

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc S 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

- Tịch thu tiêu hủy 01 đôi dép lào màu đen, quai màu xanh; 01 nón kết màu vàng; 01 quần đùi vải jean màu đen; 01 áo thun thể thao màu tím có chữ Pink Panther và 01 áo khoác nỉ màu đen tay dài (Chi cục thi hành án dân sự thành phố C đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/4/2024).

- Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

Bị cáo, Người đại diện hợp pháp có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 75/2024/HS-ST

Số hiệu:75/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;