Bản án về tội cướp giật tài sản số 62/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 62/2021/HS-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 4 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 55/2021/TLST- HS ngày 26/3/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2021/QĐXXST-HS ngày 07/4/2021 đối với bị cáo:

Đào Anh V, sinh năm 1987; Đăng ký nhân khẩu thường trú và trú tại: 42B5 ngõ 6, phường G, H, Hà Nội. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đào Văn T, sinh năm 1958 (đã chết) và bà Đỗ Thị Minh T, sinh năm 1960. Vợ là Đoàn Thu H, sinh năm 1981; Có 01 con, con sinh năm 2012.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/12/2020 đến ngày 11/12/2020. Hiện tại ngoại. Có mặt.

Bị hại: Chị Nguyễn Thị C, sinh năm 1997. HKTT: K, T, Thanh Hóa. Trú tại: Ngõ 63 L. Đ. T, phường M 2, quận N, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 11/2020, Đào Anh V có liên hệ với chị Nguyễn Thị C (sinh năm: 1997, trú tại: K, T, Thanh Hóa, tên thường dùng để giao dịch với khách hàng là L) là nhân viên Công ty TNHH cung cấp N (gọi tắt là Công ty N, có địa chỉ: số 2A, ngõ 17 Cổng làng P, phường P, N, Hà Nội) để nhờ giới thiệu người giúp việc cho gia đình V. Sau đó Đào Anh V đã chuyển 1.500.000đồng phí môi giới vào tài khoản của chị Trần Thị Hằng N (sinh năm: 1986, trú tại: P614 Tòa A T. L, T, N, Hà Nội, là Giám đốc công ty N). Sau đó, công ty N đã giới thiệu một số người giúp việc đến nhà V tại T. C để làm việc, nhưng V đều không hài lòng với những người này vì cho rằng không biết làm việc. Ngày 08/12/2020, V gọi điện thoại cho chị C yêu cầu Công ty N phải thay người giúp việc, nếu không phải trả lại phí môi giới 1.500.000đồng cho V thì chị C trả lời là việc này phải cấp trên mới giải quyết được.

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 08/12/2020, V đến Công ty N tại Số 2A, ngõ 17 Cổng làng P, phường P, N, Hà Nội để gặp chị N là Giám đốc công ty đòi lại số tiền 1.500.000đồng môi giới. Tuy nhiên, V không gặp được chị N. Khi đi lên tầng 2 thì V hỏi “ai là L” thì chị Nguyễn Thị C trả lời em đây. Lúc này chị C đang ngồi ở bàn làm việc và tay cầm chiếc điện thoại Oppo R7SF màu trắng (nắp sim số 096534xxxx, bên ngoài có ốp nhựa màu trắng, bên trong ốp nhựa có để 01 thẻ nhớ Micro SD dung lượng 4GB). Trên mặt bàn có để chiếc điện thoại Oppo A3S màu đỏ (nắp sim số 094763xxxx và có ốp nhựa màu trắng, bên trong ốp nhựa có để 01 tờ tiền mệnh giá 500.000đồng). V đi đến chỗ chị C đang ngồi và bất ngờ dùng tay phải giật nhanh chiếc điện thoại Oppo R7SF trên tay chị C rồi lấy luôn cả chiếc điện thoại Oppo A3S trên bàn và đi ra ngoài. Chị C đã đuổi theo và nói “Đây là điện thoại của em, anh không được lấy” thì V nói “Bao giờ chúng mày xử lý xong việc cho tao thì tao trả”, sau đó V bỏ đi.

Đến 14 giờ cùng ngày, Đào Anh V đã đến Cơ quan điều tra đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ của Đào Anh V:

- 01 điện thoại Oppo R7SF màu trắng, nắp sim số 096534xxxx, gắn ốp nhựa màu trắng và 01 thẻ nhớ micro SD dung lượng 4GB;

- 01 điện thoại Oppo A3S màu đỏ, nắp sim số 094763xxxx và gắn ốp nhựa màu trắng;

- 01 tờ tiền polime mệnh giá 500.000đồng Tại Bản kết luận định giá tài sản số 578 ngày 11/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Nam Từ Liêm, xác định:

- 01 điện thoại Oppo R7SF màu trắng, có gắn ốp nhựa màu trắng và 01 thẻ nhớ micro SD dung lượng 4GB trị giá: 500.000đồng;

- 01 điện thoại Oppo A3S màu đỏ, có gắn ốp nhựa màu trắng, trị giá 1.200.000đồng;

- 02 sim điện thoại số 096534xxxx và sim số 094763xxxx trị giá: 50.000đồng.

Ngày 11/12/2020, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 146, trao trả cho chị Nguyễn Thị C: 01 điện thoại Oppo R7SF màu trắng, nắp sim số 096534xxxx, gắn ốp nhựa màu trắng và 01 thẻ nhớ micro SD dung lượng 4GB; 01 điện thoại Oppo A3S màu đỏ gắn sim số 094763xxxx và có nắp ốp nhựa màu trắng; 01 tờ tiền polime mệnh giá 500.000đồng.

Về dân sự: chị Nguyễn Thị C không có yêu cầu gì về dân sự và có đơn xin giảm nhẹ cho Đào Anh V.

Tại bản cáo trạng số 60/CT- VKS ngày 25/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm bị cáo Đào Anh V bị truy tố về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Đào Anh V khai nhận hành vi phạm tội của mình, thành khẩn nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và kết luận bị cáo Đào Anh V đã phạm tội “Cướp giật tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét tình tiết giảm nhẹ, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1 Điều 171, điểm b, s, h Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự tuyên phạt bị cáo Đào Anh V mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Xử lý vật chứng: Không.

Về trách nhiệm dân sự: Không.

Lời nói sau cùng bị cáo thấy ăn năn về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm và của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 08/12/2020, tại Công ty TNHH cung cấp N tại Số 2A, ngõ 17 Cổng làng P, phường P, N, Hà Nội, Đào Anh V đã có hành vi cướp giật 01 điện thoại Oppo R7SF màu trắng (nắp sim số 096534xxxx, có gắn ốp nhựa màu trắng và để trong ốp 01 thẻ nhớ Micro SD dung lượng 4GB) trị giá 525.000 đồng và điện thoại Oppo A3S màu đỏ (nắp sim số 094763xxxx và gắn ốp màu trắng, bên trong ốp để 01 tờ tiền mệnh giá 500.000đồng) trị giá 1.225.000đồng. Tổng giá trị tài sản Đào Anh V Cướp giật của chị Nguyễn Thị C là 2.250.000 đồng.

Hành vi của bị cáo Đào Anh V đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật hình sự 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây hoang mang tới quần chúng nhân dân tại địa phương nên cần phải xử lý nghiêm. Trong vụ án này, bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý, tuy vậy hành vi của bị cáo chỉ mang tính chất bộc phát, bị cáo lấy điện thoại của bị hại không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản mà chỉ để tạo sức ép buộc bên Công ty TNHH cung cấp N nơi bị hại làm việc phải có trách nhiệm cung ứng người giúp việc như việc V đã giao kết với Công ty N.

Khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện sửa chữa, khắc phục hậu quả của tội phạm, tài sản chiếm đoạt đã thu hồi trả cho người bị hại và bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo không có tiền án, tiền sự; bị cáo đầu thú sau khi thực hiện hành vi phạm tội; Do đó Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là có căn cứ nên áp dụng các điểm b và s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được phân tích ở trên: Xét thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo nên chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng mức phạt tù nhưng cho hưởng án treo được quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự 2015 cũng đủ giáo dục, cải tạo để bị cáo trở thành người tốt cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định vì vậy Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án do đã thu hồi trả cho bị hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về dân sự: Bị hại không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 171; Điểm b, s, h Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự;

- Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hộ quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên bố bị cáo Đào Anh V phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo Đào Anh V 14 (Mười bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách 28 (hai mươi tám) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường G, quận H, thành phố Hà Nội để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về xử lý vật chứng: Không.

Về án phí: Bị cáo Đào Anh V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo có mặt, vắng mặt bị hại. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 62/2021/HS-ST

Số hiệu:62/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;