Bản án về tội cướp giật tài sản số 531/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 531/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 815/2020/HSST ngày 03/12/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 6249/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: DHP; giới tính: Nam; sinh ngày: 03/8/1983 tại AG; hộ khẩu thường trú: Số Thường trú: 686/1 VVK, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 159A/18 PTH, Phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: VN; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; đảng phái: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Không; con ông DCM (chết) và bà NTT (chết); anh chị em:

Có 01 người anh sinh năm 1981; có vợ tên Châu Thị AH, sinh năm 1987 và 01 con sinh năm 2009; tiền án, tiền sư: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/9/2020 tại Trại tạm giam Chí Hòa Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Ông SYW, sinh năm: 1978, quốc tịch HQ (vắng mặt).

Địa chỉ: P11-11-12B VCP, Phường E, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Châu Thị AH, sinh năm 1987 (có mặt).

Địa chỉ: 159A/18 PTH, Phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người làm chứng: Bà Đỗ Thị D, sinh năm 1991 (vắng mặt).

Địa chỉ: 2/84B QT, phường TNB, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ ngày 23/9/2020, bị cáo DHP đi xe mô tô biển số 59H1- 695.xx khi đi đến trước nhà số 381-383 NT, Phường H, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, P nhìn thấy ông SYW (quốc tịch HQ) đang đứng trên vỉa hè sử dụng điện thoại và kẹp nách 01 túi xách. P điều khiển xe mô tô chạy lên vỉa hè, áp sát ông SYW rồi dùng tay trái giật chiếc túi xách rồi tăng ga bỏ chạy. Sau đó, P chạy xe đến quán cà phê trên đại lộ ĐT (P không nhớ địa chỉ) kiểm tra túi xách thì thấy bên trong có 01 túi nhỏ đựng giấy tờ tùy thân tên SYW và 09 triệu đồng tiền Việt Nam. Khoảng 01 tuần sau, P mang tài sản cướp giật được gồm 02 túi xách và giấy tờ tùy thân của bị hại vứt trong thùng rác trên đường CMTT (không nhớ địa chỉ) còn số tiền 09 triệu đồng P mang đến cửa hàng FPT (địa chỉ số 149 CMTT) chuyển trả nợ khoản vay qua App điện thoại.

Ngày 05/9/2020, bị cáo DHP đến Phòng Cảnh sát hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung đã nêu trên và giao nộp xe gắn máy Yamaha Janus biển số 59H1-695.xx là phương tiện P sử dụng phạm tội.

Tại Bản kết luận giám định số 4497/KLGĐ-X(Đ3) ngày 15/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Xe mô tô Yamaha Janus biển số 59H1-695.xx có số khung: RLCSEC810GY11851; Số máy: E3X8E-011850 là không thay đổi.

Tại bản kết luận giám định số 2088/KLGĐ-TT ngày 10/11/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Không tìm thấy dấu hiệu cắt ghép, chỉnh sửa nội dung tập tin video camera trước địa chỉ số 381-383 NT, Phường H, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại Công văn số 5455/STC-HĐĐGTS-LTG ngày 24/8/2020, Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự cấp Thành phố Hồ Chí Minh từ chối định giá đối với 02 chiếc túi xách bị cướp giật với lý do Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Thành phố Hồ Chí Minh không bổ sung được các thông tin về model, kích thước, chất liệu, kiểu dáng, hình ảnh... của 02 chiếc túi xách bị P cướp giật.

Vật chứng thu giữ:

- 01 xe gắn máy loại Yamaha Janus biển số 59H1- 695.xx là phương tiện P sử dụng làm phương tiện phạm tội. Qua xác minh, chiếc xe trên do bà Châu Thị AH là vợ của bị cáo P đứng tên chủ sở hữu. Bà H khai chiếc xe trên được mua để sử dụng đi lại hàng ngày. Khi bị cáo DHP sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện để thực hiện hành vi cướp giật tài sản thì bà Hồng không biết, do đó nên trả lại chiếc xe trên cho bà Châu Thị AH.

- 01 USB chứa dữ liệu ghi hình DHP thực hiện hành vi cướp giật tài sản ngày 23/9/2019 nên cần được lưu trữ trong hồ sơ vụ án.

Trách nhiệm dân sự: Ông SYW đã được vợ của bị cáo DHP là bà Châu Thị AH bồi thường (BL số 44-44a-44b), ông W không yêu cầu bồi thường thêm và không có ý kiến gì khác.

Tại bản Cáo trạng số 573/CT-VKS-P2 ngày 23/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo DHP tội “Cướp giật tài sản”, thuộc trường hợp “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

1. Quá trình xét hỏi công khai và thẩm tra các tài liệu, chứng cứ có liên quan trong vụ án: Bị cáo DHP thừa nhận đã thực hiện hành vi đúng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố.

2. Trong phần tranh luận:

2.1 Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 tuyên phạt bị cáo DHP từ 03 năm đến 04 năm tù giam.

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật.

2.2 Bị cáo không tranh luận với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

3. Phần bị cáo nói lời nói sau cùng:

Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt đối với hành vi phạm tội của mình.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và trình bày của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo có mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Châu Thị AH có mặt; bị hại là ông SYW, người làm chứng là bà Đỗ Thị D vắng mặt dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Xét thấy, tại cơ quan điều tra những người này đều đã có lời khai, nội dung vụ án đã được làm rõ, về trách nhiệm dân sự không có yêu cầu nên việc xét xử vắng mặt những người này không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[3] Qua lời khai của bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng phù hợp với các vật chứng thu giữ, cùng các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong quá trình điều tra, có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 12 giờ ngày 23/9/2019, tại trước nhà số 381-383 đường NT, Phường H, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo DHP điều khiển xe mô tô biển số 59H1-695.90 thực hiện hành vi cướp giật tài sản của ông SYW (quốc tịch HQ) là một chiếc túi xách hiệu Bottega Veneta (bên trong có 01 ví hiệu Louis Vuitton chứa 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng) cùng 02 thẻ tín dụng ngân hàng Shinhan, 01 thẻ tạm trú và 01 hộ chiếu). Tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng) theo kết luận định giá của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự.

Khi thực hiện hành vi như đã nhận định ở trên, bị cáo là người đã thành niên, có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, sử dụng xe máy là phương tiện nguy hiểm để thực hiện hành vi cướp giật tài sản của người lưu thông trên đường phố, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, tính mạng của cá nhân, tổ chức khác, gây tâm lý hoang mang lo sợ, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội và phần nào làm xấu đi cái nhìn của người nước ngoài đối với đất nước và con người Việt Nam.

Từ các căn cứ trên, có đủ cơ sở để xác định hành vi của bị cáo DHP đã phạm tội “Cướp giật tài sản”, thuộc trường hợp “dùng phương tiện nguy hiểm” theo quy định tại các điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát Thành phố Hồ Chí Minh truy tố là đúng người, đúng tội.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, sau khi phạm tội đã tự nguyện ra đầu thú khai báo về hành vi vi phạm pháp luật của mình, gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại đầy đủ cho bị hại, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong quá trình giải quyết vụ án nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Ông SYW không yêu cầu bồi thường và không có ý kiến gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng Căn cứ Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- 01 xe gắn máy loại Yamaha Janus biển số 59H1- 695.xx là tài sản của bà Châu Thị AH, bà H không biết Phúc sử dụng xe làm phương tiện phạm tội, nên trả lại cho bà Châu Thị AH.

- 01 USB chứa dữ liệu ghi hình DHP thực hiện hành vi cướp giật tài sản ngày 23/9/2019 nên cần được lưu trữ trong hồ sơ vụ án.

[8] Về án phí.

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo DHP phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, điểm b, s, t khoản 1 khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo DHP 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày 05/9/2020.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Trả lại cho bà Châu Thị AH 01 xe gắn máy loại Yamaha Janus biển số 59H1- 695.xx.

- Lưu trữ trong hồ sơ vụ án 01 USB chứa dữ liệu ghi hình DHP thực hiện hành vi cướp giật tài sản ngày 23/9/2019.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo DHP phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 531/2020/HS-ST

Số hiệu:531/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;