Bản án về tội cướp giật tài sản số 44/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 44/2021/HSST NGÀY 18/03/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 09/2021/HSST ngày 26 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Ôn Phi C (Tên gọi khác: D); sinh năm: 1984, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; trú tại: 269 đường A, Phường Q, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 07/12; giới tính: Nam; dân tộc: Hoa; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ôn V, sinh năm: 1957 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1957; vợ, con: Chưa có; nhân thân: Ngày 22/5/2010, bị Tòa án nhân dân quận B xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/8/2011; ngày 11/10/2013 bị Ủy ban nhân dân Quận A đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng; ngày 22/6/2016 bị Tòa án nhân dân Quận C áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 23/8/2020 - Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Chị Nguyễn Thị Hồng N, sinh ngày: 20/5/2000; trú tại: 36/8/2 đường H, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh – Vắng mặt Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Lê Thanh H, sinh năm: 1972; trú tại: 174B đường T, Phường 10, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 23/8/2020, Ôn Phi C điều khiển xe mô tô Dream biển số 59P2-118.96 lưu thông trên đường L thì phát hiện ông Trương Văn N điều khiển xe máy hiệu Wave, biển số 71B2-653.47 chở chị Nguyễn Thị Hồng N và Nguyễn Hoàng Thanh T ngồi phía sau đang lưu thông phía trước cùng chiều, chị N có đeo một sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng trên cổ, lúc này C nảy sinh ý định cướp giật sợi dây chuyền của chị N nên điều khiển xe gắn máy bám theo phía sau, khi đến trước số 731 L, phường P, quận T. C điều khiển xe mô tô chạy lên ép sát phía bên phải của chị N rồi dùng tay trái giật sợi dây chuyền của chị N, lúc này chị N lấy hai tay nắm chặt tay trái của C giằng co khiến sợi dây chuyền bị đứt rơi vào tay của chị N, ngay sau đó C giật mạnh tay ra khỏi tay chị N rồi tăng ga xe bỏ chạy nhưng va chạm với xe của ông N làm C bị loạng choạng tay lái rồi tiếp tục va chạm xe đẩy rác bên lề đường té ngã, C tiếp tục bỏ chạy nhưng bị người dân chặn xe bắt quả tang tại trước số 727 L, phường P, quận T.

Tại Cơ quan Điều tra Ôn Phi C thừa nhận toàn bộ hành vi cướp giật dây chuyền của chị N như trên.

Theo kết luận giám định tại Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng 3 (Quatest) thì 01 (một) sợi dây chuyền bằng hợp kim vàng 11k dạng móc xích dài 48cm có khối lượng 2,5324g; 01 (một) mặt dây chuyền bằng hợp kim vàng 11k có hình dạng 02 (hai) chữ C ngược nhau có khối lượng 1,1927g. Theo kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng quận Tân Phú một sợi dây chuyền bằng hợp kim vàng (11K) dạng móc xích dài 48cm. Khối lượng 2,5324gram; một sợi dây chuyền bằng hợp kim vàng (11K), có hình dạng hai chữ C ngược nhau. Khối lượng 1,1927gram. Tài sản trị giá 2.300.000 (hai triệu ba trăm ngàn) đồng.

Vật chứng - 01 xe máy hiệu Dream biển số 59P2-11896, số khung RLHHA080X3Y508812, số máy HA08E-0508834 do anh Lê Thanh H, địa chỉ 174B Trần Văn Q, phường 10, quận B đứng tên chủ sở hữu. Tiến hành làm việc với anh H xác nhận ngày 23/8/2020 anh H cho Ôn Phi C mượn xe gắn máy trên để đi làm, việc C dùng xe gắn máy đi cướp giật tài sản thì anh H hoàn toàn không biết. Cơ quan Cảnh Sát Điều tra Công an quận Tân Phú đã ra quyết định trả lại xe máy cho anh Lê Thanh H.

- 01 ĐTDĐ hiệu Blade Berry màu đen, số Imei 332493056662605 là tài sản cá nhân của C.

Tại bản cáo trạng số 20/CT-VKSQ.TP ngày 25 tháng 01 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đã truy tố bị cáo Ôn Phi C về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Sau khi kết thúc phần xét hỏi, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa, phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm về tội danh và điều khoản mà cáo trạng đã truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Ôn Phi C từ 04 năm đến 05 năm tù.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý phần trách nhiệm dân sự và vật chứng.

- Bị cáo Ôn Phi C đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án được tóm tắt như trên, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Điều tra viên, Kiểm sát viên, khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở để xác định:

Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 23/8/2020, Ôn Phi C điều khiển xe mô tô biển số 59P2 – 118.96 lưu thông trên đường L, phường P, quận T thì phát hiện chị Nguyễn Thị Hồng N ngồi sau xe gắn máy do ông Trương Văn N điều khiển, trên cổ chị N có đeo 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng, C nảy sinh ý định cướp giật nên điều khiển xe bám theo phía sau. Khi đến trước nhà số 731 đường L, phường P, quận T, C ép sát vào bên phải của chị N rồi dùng tay trái giật sợi dây chuyền của chị N đang đeo trên cổ, chị N dùng hai tay nắm chắt tay trái của C giằng co làm sợi dây chuyền bị đứt rơi vào tay của chị N, C giật tay ra bỏ chạy thì va chạm với xe của ông N và té ngã xuống đường thì bắt giữ giao công an xử lý.

Vì vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Ôn Phi C phạm tội “Cướp giật tài sản”, như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo lợi dụng sự sơ hở của bị hại sử dụng xe gắn máy là phương tiện nguy hiểm nhanh chóng giật sợi dây chuyền có trị giá là 2.300.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú truy tố bị cáo theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, gây mất an ninh trật tự ở địa phương. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi cướp giật tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi, muốn có tiền tiêu xài một cách dễ dàng nhưng không muốn bỏ công sức lao động nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội một cách táo bạo và liều lĩnh, ngay trên đường phố có đông người qua lại, chứng tỏ ý thức xem thường pháp luật của bị cáo.

[4] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, vào ngày 22/5/2010, bị Tòa án nhân dân quận B xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/8/2011; ngày 11/10/2013 bị Ủy ban nhân dân Quận A đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng; ngày 22/6/2016 bị Tòa án nhân dân Quận C áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng, đây là tình tiết cần lưu ý khi lượng hình.

[5] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm khắc, mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, cũng xem xét bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt là 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng, đã thu hồi trả cho bị hại, chị Nguyễn Thị Hồng N không yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết phần trách nhiệm dân sự.

[7] Về xử lý vật chứng:

- 01 xe máy hiệu Dream biển số 59P2-11896, số khung RLHHA080X3Y508812, số máy HA08E-0508834 do anh Lê Thanh H đứng tên chủ sở hữu. Anh H xác nhận ngày 23/8/2020, anh H cho Ôn Phi C mượn xe gắn máy trên để đi làm, việc C dùng xe gắn máy đi cướp giật tài sản anh H không biết. Cơ quan Cảnh Sát Điều tra Công an quận Tân Phú đã ra quyết định trả lại xe máy cho anh Lê Thanh H nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

- 01 điện thoại di động hiệu Blade Berry màu đen, số Imei 332493056662605 là tài sản cá nhân của C nên trả cho bị cáo Cường theo qui định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Khi bị cáo giật sợi dây chuyền của bị hại có làm chị N bị trầy xước ở cổ nhưng do vết thương không đáng kể, chị N không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ngoài ra, ông Trương Văn N và chị Nguyễn Hoàng Thanh T có bị ngã xe nhưng không bị thương tích và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8] Án phí: Bị cáo Ôn Phi C phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[2] Tuyên bố bị cáo Ôn Phi Cường phạm tội "Cướp giật tài sản". Xử phạt bị cáo Ôn Phi C 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 23 tháng 8 năm 2020.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trả cho bị cáo Ôn Phi C 01 (một) điện thoại di động hiệu Blade Berry màu đen, số Imei 332493056662605 (Vật chứng hiện đang nhập kho theo Phiếu nhập kho vật chứng số 221/PNK ngày 04/9/2020 của Công an quận Tân Phú).

[5] Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Ôn Phi C nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành theo qui định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

566
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 44/2021/HSST

Số hiệu:44/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;