Bản án về tội cướp giật tài sản số 42/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 42/2020/HS-ST NGÀY 27/05/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 39/2020/HS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Hải A (Giới tính: Nam), Sinh năm: 1988, tại BT. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khu phố B, thị trấn C, huyện D, tỉnh BT. Dân tộc: Kinh. Quốc tịch:Việt Nam.Tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: 01/12. Nghề nghiệp: không. Con ông Nguyễn E (đã chết) và bà Nguyễn Thị F, sinh năm: 1953, nghề nghiệp: Nội trợ. Trú tại: khu phố B, thị trấn C, huyện D, tỉnh BT.

- Tiền án:

+ Ngày 24/9/2010 bị Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh BT tuyên phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án số 68/HSST, ngày 28/8/2012 chấp hành xong hình phạt.

+ Ngày 25/02/2014 bị Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh BT xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, theo bản án số 10/2014/HSST.

+ Ngày 21/4/2014 bị Tòa án nhân dân TP. PT xử phạt 05(năm) năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án số 79/2014/HSST, cộng với hình phạt 02 năm tù tại bản án số 10/2014/HSST ngày 25/02/2014 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh BT, tổng hợp hình phạt chung cho cả hai bản án buộc A phải chấp hành là 07 năm tù, chấp hành xong hình phạt ngày 06/3/2019 tại trại giam H.

- Tiền sự: không - Nhân thân:

+ Ngày 30/12/2005 bị Chủ tịch UBND huyện D ra Quyết định số 5935/QĐ – UBND ngày 30/12/2005 về việc đưa vào trường giáo dưỡng thời hạn 18 tháng. Chấp hành từ ngày 16/01/2006 đến ngày 30/4/2007 chấp hành xong.

Bị cáo Nguyễn Hải A bị bắt tạm giam từ ngày 16/12/2019 hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ - Công an TP. PT. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Võ Trung I (tên gọi khác: J), Giới tính: Nam, Sinh năm: 1991, tại BT. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khu phố B, thị trấn C, huyện D, tỉnh BT. Dân tộc: Kinh. Quốc tịch: Việt Nam.Tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: không biết chữ. Nghề nghiệp: không. Con ông Võ K, sinh năm: 1954 (đã chết) và bà Bùi Thị L, sinh năm: 1954, nghề nghiệp: Nội trợ. Trú tại: khu phố B, thị trấn C, huyện D, tỉnh BT.

- Tiền án: không - Tiền sự: Ngày 22/7/2019, I bị Công an huyện D, tỉnh BT ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, mức phạt 1.500.000 đồng.

- Nhân thân: Ngày 19/11/2019 bị Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh BT tuyên phạt 05(năm) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, tại bản án số 93/2019/HSST. Ngày 25/12/2019 Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh BT ra Quyết định thi hành án phạt tù đối với I). Bị cáo Võ Trung I hiện đang chấp hành án phạt tù tại trại giam H theo Bản án số 93/2019/HSST ngày 19/11/2019 nêu trên. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

*/Người bị hại:

Bà Lê Vũ Xuân M, sinh năm: 2001(có đơn xin xét xử vắng mặt). Nơi cư trú: khu phố N, phường O, thành phố PT, tỉnh BT

*/Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Minh P, sinh năm: 1987(có đơn xin xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: thôn Q, xã R, huyện D, tỉnh BT

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 24/8/2019, Nguyễn Hải A điều khiển xe mô tô hiệu Sirius (không rõ biển số) mượn từ một người bạn tên S (không rõ nhân thân) chở theo phía sau Võ Trung I đi từ khu phố B, thị trấn C, huyện D đến phường O, TP. PT với mục đích mua ma túy về để sử dụng nhưng không có. Sau đó cả hai đi về theo đường T hướng về TP. PT, khi đến gần tới cầu O (thuộc phường O) thì I nhìn thấy chị Lê Vũ Xuân M (sinh ngày: 29/11/2001, trú tại khu phố N, phường O) ngồi trước nhà số 144, đường T thuộc khu phố N, phường O đang sử dụng điện thoại di động hiệu Samsung A50 thì I nảy sinh ý định cướp giật tài sản. I nói với A dừng xe lại để I đi bộ qua bên kia đường giật tài sản thì A đồng ý. Sau khi bàn bạc xong, A dừng xe bên lề đường T theo chiều đi về của A và I, nổ máy xe chờ sẵn. I xuống xe đi bộ qua đường, tiếp cận từ phía sau, thấy chị M không để ý xung quanh nên I dùng 02 tay của mình bất ngờ giật chiếc điện thoại trên tay chị M rồi bỏ chạy về phía A đang chờ sẵn.

A điều khiển xe mô tô chở I bỏ chạy theo hướng về PT, qua nhà thờ O rẽ phải vào đường U ra đường quốc lộ 1A về thị trấn C. Khi về tới gần nhà A thì I xuống đi bộ còn A điều khiển xe đi trả cho S, tài sản vừa cướp giật được thì do I giữ.

Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, A và I bàn bạc đem chiếc điện thoại vừa cướp giật được của chị M đi bán. I mang chiếc điện thoại đến tiệm điện thoại V ở khu phố N, phường Phú Trinh, TP. PT do Nguyễn Minh P (sinh năm: 1987, trú tại thôn Q, xã R, huyện D) làm chủ để bán. Tại đây, I nói với anh P là điện thoại của mình không dùng nên đem đi bán, anh P tin tưởng và đồng ý mua với giá 3.800.000 đồng. Sau đó, I và A chia nhau số tiền mỗi người được 1.900.000 đồng tiêu xài hết cá nhân hết.

Đến 21 giờ 45 phút cùng ngày, chị M cùng cha ruột mình là Lê Hồng W đã đến Công an phường O trình báo sự việc.

Tại bản kết luận định giá số 199/KL-HĐĐG ngày 27/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. PT kết luận:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung A50,số IMEI: 35664610434XXXX/01 trị giá 6.210.000 đồng.

Vật chứng của vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung A50,số IMEI: 35664610434XXXX/01 ,do anh Nguyễn Minh P giao nộp.

Cơ quan CSĐT Công an TP. PT đã tiến hành xử lý vật chứng, trả lại cho chị Lê Vũ Xuân M, chị M đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm về dân sự.

Đối với anh Nguyễn Minh P là người đã mua lại chiếc điện thoại từ I, do không biết rõ nguồn gốc do I cướp giật mà có nên không có căn cứ xử lý. Anh P không yêu cầu I trả lại số tiền 3.800.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 33/CT – VKS ngày 24 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT đã truy tố Nguyễn Hải A về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Võ Trung I về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b, i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hải A mức án từ 06 năm tù đến 07 năm tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55, Điều 56 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Võ Trung I mức án từ 24 tháng tù đến 36 tháng tù.

Các bị cáo không trình bày lời bào chữa cũng như không có ý kiến về lời luận tội của Kiểm sát viên, đồng thời thừa nhận tòan bộ hành vi phạm tội và đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT.

Các bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố PT, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến, hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa hôn nay, các bị cáo Nguyễn Hải A và Võ Trung I khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị hại, lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có trong hồ sơ vụ án thể hiện:

Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 24/8/2019, Võ Trung I và Nguyễn Hải A đã có hành vi cướp giật 01 chiếc điện thoại di động Samsung A50 trị giá 6.210.000 đồng của chị Lê Vũ Xuân M tại khu phố N, phường O, TP. PT.

Xét thấy, các bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, hành vi công khai chiếm đoạt tài sản và tẩu thoát một cách nhanh chóng đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của người khác, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Đối với Nguyễn Hải A, ngày 21/4/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố PT, tỉnh BT xử phạt 05(năm) năm tù về tội “Cướp giật tài sản” với tình tiết “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, “Tái phạm”. Ngày 06/3/2019 A chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích. Ngày 24/8/2019 A tiếp tục phạm tội “Cướp giật tài sản”, do đó hành vi của A đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” với tình tiết định khung hình phạt “Có tính chất chuyên nghiệp”, “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự. Đối với hành vi của Võ Trung I đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự. Do đó bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo cho thấy, trong vụ án này khi hai bị cáo đang chở nhau trên xe mô tô thì I nhìn thấy chị M đang sử dụng điện thoại thì I nảy sinh ý định cướp giật điện thoại và nói A dừng xe lại để I trực tiếp vào giật điện thoại nên bị cáo phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án này. Đối với bị cáo A khi nghe bị cáo I nói thì bị cáo A dừng xe cho I trực tiếp vào giật điện thoại rồi nhanh chóng tẩu thoát. Do vậy, hành vi của bị cáo A thực hiện với vai trò giúp sức tích cực nên bị cáo phải chịu trách nhiệm tương xứng với hành vi phạm tội của mình.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phải xử lý nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện, nhằm để răn đe, cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

Xét thấy trong qúa trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo A và I đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo theo quy định của pháp luật.

[5] Về tiền án, tiền sự, nhân thân của bị cáo A:

- Về tiền án:

+ Ngày 24/9/2010 bị Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh BT tuyên phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án số 68/HSST.

+ Ngày 25/02/2014 bị Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh BT xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”;

+ Ngày 21/4/2014 bị Tòa án nhân dân TP. PT xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án số 79/2014/HSST.

- Về tiền sự: không - Về nhân thân: Ngày 30/12/2005 bị Chủ tịch UBND huyện D, tỉnh BT ra Quyết định số 5935/QĐ – UBND ngày 30/12/2005 về việc đưa vào trường giáo dưỡng thời hạn 18 tháng.

Hội đồng xét xử sẽ xem xét về tiền án, tiền sự, về nhân thân khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về tiền án, tiền sự, nhân thân của bị cáo I:

- Về tiền án: không - Về tiền sự: Ngày 22/7/2019, I bị Công an huyện D, tỉnh BT ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

- Về nhân thân: Ngày 19/11/2019 I bị Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh BT tuyên phạt 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, tại bản án số 93/2019/HSST.

Hội đồng xét xử sẽ xem xét về tiền án, tiền sự, nhân thân khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Bản án số 93/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh BT đã có hiệu lực pháp luật nên căn cứ vào Điều 55, Điều 56 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành cho các bản án.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản mà các bị cáo cướp giật của bị hại đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt, trong đơn thể hiện về hình sự xét xử các bị cáo theo quy định của pháp luật, về dân sự đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.

Anh P có đơn xin xét xử vắng mặt, trong đơn anh thể hiện không yêu cầu các bị cáo phải trả lại số tiền 3.800.000 đồng nên Hội đồng xét xử không xét.

[8] Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo là có căn cứ và với mức hình phạt đề nghị là tương xứng với các bị cáo.

Trên cơ sở cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, xem xét nhân thân, tiền án, tiền sự, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định là cần thiết.

Đối với anh Nguyễn Minh P là người đã mua lại chiếc điện thoại từ I, nhưng do không biết rõ nguồn gốc tài sản là do cướp giật mà có nên không có căn cứ xử lý.

Đối với chiếc xe môtô hiệu Sirius, không rõ biển số, A mượn của người tên S tại thị trấn C, huyện D, sau khi thực hiện xong hành vi cướp giật tài sản, A đã trả lại cho S, nhưng qua xác minh tại Công an thị trấn C không xác định được ai là S nên không có căn cứ để làm rõ nguồn gốc của xe trên.

[9]Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

*Căn cứ: khoản 1 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55, Điều 56 Bộ luật hình sự.

* Tuyên bố: Bị cáo Võ Trung I phạm tội “Cướp giật tài sản ”.

* Xử phạt: Bị cáo Võ Trung I 30 (ba mươi) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 05(năm) năm tù tại Bản án số 93/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh BT, buộc bị cáo Võ Trung I chấp hành hình phạt chung của các bản án là 07 (bảy) năm 06(sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam là ngày 21 tháng 9 năm 2019.

*Căn cứ: Căn cứ điểm b, i khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

* Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hải A phạm tội “Cướp giật tài sản ”.

* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hải A 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam là ngày 16 tháng 12 năm 2019.

* Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết, buộc các bị cáo Võ Trung I và Nguyễn Hải A mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo bản án của các bị cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (27/5/2020), của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án tại địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 42/2020/HS-ST

Số hiệu:42/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: đang cập nhật
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;