TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 32/2023/HS-ST NGÀY 05/04/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 05 tháng 04 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 18/2023/TLST-HS ngày 01/03/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2023/QĐXXST-HS ngày 22/03/2023 đối với bị cáo:
Vũ Văn H, sinh năm 1982 tại Hà Nam; nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Tổ dân phố H, phường C, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn N và bà Vũ Thị C; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 25/01/2005, UBND thị xã Phủ Lý (nay là thành phố Phủ Lý), tỉnh Hà Nam quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc thời gian 02 năm. Ngày 07/11/2007, Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 15 tháng tù về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngày 27/03/2013, Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi: “Cất giữ trái phép chất ma túy”. Ngày 07/01/2015, Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi: “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 27/01/2015, Công an phường Châu Sơn, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 750.000 đồng về hành vi: “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 20/03/2015, Công an phường Châu Sơn, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 350.000 đồng về hành vi: “Đánh bạc”. Ngày 05/6/2015, Công an phường Châu Sơn, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền 750.000 đồng về hành vi: “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 30/6/2015, Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 24 tháng; bị bắt tạm giam từ ngày 15/12/2022 đến nay; có mặt.
- Bị hại: Bà Phạm Thị M, sinh năm 1970; trú tại: Tổ 9, phường H, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Anh Nguyễn Minh D, sinh năm 1987; địa chỉ: Tổ dân phố H, phường Châu Sơn, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
2. Anh Lương Văn Đ, sinh năm 1984; địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
3. Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1958; địa chỉ: Tổ dân phố Đ, phường C, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
- Người làm chứng:
1. Chị Vũ Thị H, sinh năm 1992; vắng mặt.
2. Chị Vũ Huyền T, sinh năm 1995; vắng mặt.
3. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1986; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ ngày 17/11/2022, bà Phạm Thị M một mình điều khiển xe máy điện nhãn hiệu Dibao màu trắng cùng với chị Vũ Huyền T điều khiển xe máy điện nhãn hiệu Dibao màu đỏ chở chị Vũ Thị H phía sau đi trên đường Quốc lộ 1A theo hướng Phủ Lý đi Ninh Bình để đến chơi nhà chị gái của bà M ở phường Thanh Tuyền, thành phố Phủ Lý. Khi đi qua ngã ba giao nhau có tín hiệu đèn giao thông giữa đường Quốc lộ 1A và đường Nguyễn Thị Định gần khu đô thị Tài Tâm, phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý, bà M có điện thoại gọi đến nên cầm chiếc điện thoại nhãn hiệu NOKIA C20 để trong hộc đựng đồ xe điện lên để nghe, nghe xong điện thoại, bà M để lại chiếc điện thoại vào hộc đựng đồ phía trước bên trái xe điện. Lúc này, Vũ Văn H mặc áo chống nắng dài tay có mũ trùm đầu, quần bò ngố màu xanh, đi dép nhựa đế nhiều lỗ, đeo khẩu trang y tế màu xanh, đội mũ bảo hiểm loại nửa đầu màu đỏ điều khiển xe môtô nhãn hiệu HONDA loại Wave Alpha màu đỏ, đeo biển kiểm soát 90F1-xxxx đi phía sau cùng chiều với bà M, nhìn thấy bà M nghe điện thoại và cất điện thoại vào hộc để đồ trên xe nên H nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại. H tăng ga vọt lên đi áp sát vào bên trái xe của bà M lúc này đang đi song song phía bên trái xe của chị T, H dùng tay phải giật lấy chiếc điện thoại bà M để ở trong hộc đựng đồ xe điện, chuyển qua cầm giữ trong bàn tay trái rồi tăng ga bỏ chạy về hướng Ninh Bình. Khi đến ngã ba Đọ Xá thuộc phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý, H rẽ phải rồi đi qua cầu Đọ Xá sang phường Châu Sơn, thành phố Phủ Lý. Dọc đường, H dừng xe lại tắt nguồn điện thoại và tháo 02 thẻ SIM trong điện thoại của bà M vứt đi rồi tiếp tục đi đến cửa hàng điện thoại di động Trường Giang mobile của anh Nguyễn Văn T ở địa chỉ số 661 Lý Thường Kiệt thuộc tổ 1 phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý để hỏi bán chiếc điện thoại cho anh T nhưng anh T không mua nên H tiếp tục điều khiển xe môtô đi ra Quốc lộ 1A hướng về phía Ninh Bình. Khi đến khu vực ngã tư có đèn giao thông thuộc xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, H gặp một người nam giới khoảng 40 tuổi, H đã hỏi và bán được chiếc điện thoại cho người này với giá 300.000 đồng. Số tiền bán chiếc điện thoại H đã sử dụng tiêu sài cá nhân hết.
Ngày 12/12/2022, bà Phạm Thị M đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý trình báo sự việc. Đến ngày 15/12/2022, Vũ Văn H bị bắt tạm giam để điều tra làm rõ hành vi cướp giật tài sản thực hiện ngày 17/11/2022.
Vật chứng thu giữ của vụ án gồm:
- Thu giữ của Vũ Văn H: 01 xe môtô nhãn hiệu SYM Galaxy, biển kiểm soát:
90B1-857.40; 01 áo chống nắng dài tay, màu xám có mũ trùm đầu, trên ngực áo có in chữ “D&FASHION”; 01 quần bò ngố màu xanh, gắn nhãn “GENVIET 30JEANS”; 01 đôi dép nhựa màu xanh, in logo hình quả táo cùng chữ “HV”; 01 mũ bảo hiểm dạng mũ nửa đầu, màu đỏ, trên mũ có in chữ “C&H HELMET”; 01 điện thoại di động nhãn hiệu ITEL IT2173 màu xanh.
- Anh Nguyễn Minh D giao nộp: 01 xe môtô nhãn hiệu HONDA loại Wave Alpha, màu sơn đỏ, đeo biển kiểm soát: 90F1- xxxx.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 120/2022 ngày 27/12/2022, Hội đồng định giá tài sản thành phố Phủ Lý kết luận:“01 điện thoại nhãn hiệu NOKIA C20, màu xanh dương, máy đã qua sử dụng, giá: 500.000 đồng”.
Tại bản kết luận giám định số 737/KL-KTHS ngày 23/12/2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: “Xe môtô nhãn hiệu HONDA Wave Alpha, màu đỏ, biển kiểm soát: 90F1-xxxx, số khung: RLHHC080X2Y082242, số máy: HC08E-0082272 và xe môtô nhãn hiệu SYM Galaxy, màu xanh, biển kiểm soát: 90B1-857.40, số khung: RLGMD11HDED011785, số máy: VMVBAC - D011785; số khung, số máy đều nguyên thủy”.
Đối với chiếc xe môtô nhãn hiệu SYM, biển kiểm soát: 90B1-857.40 thu giữ của Vũ Văn H, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Lương Văn Đ, không liên quan đến vụ án. Ngày 18/01/2023, Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản này cho anh Đ.
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA C20 Vũ Văn H chiếm đoạt của bà Phạm Thị M, quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tiến hành thực hiện việc truy tìm nhưng không thu hồi lại được.
Bản Cáo trạng số 26/CT-VKS-PL ngày 28/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Vũ Văn H về tội: “Cướp giật tài sản”, theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố Nhà nước giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Vũ Văn H, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:
- Hình phạt chính: Xử phạt Vũ Văn H từ 05 năm đến 06 năm tù.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 585, 586, 587 và 589 Bộ luật Dân sự buộc Vũ Văn H phải bồi thường thiệt hại giá trị tài sản đã chiếm đoạt cho bà Phạm Thị M số tiền là 500.000 đồng.
- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Vũ Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội thực hiện ngày 17/11/2022 đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối với người tham gia tố tụng trong vụ án là bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với chứng cứ của vụ án được thẩm tra tại phiên tòa như đơn trình báo của bị hại; biên bản chỉ dẫn nơi có dấu vết tội phạm, biên bản trích xuất, thu giữ, khai thác dữ liệu thông tin trên thiết bị đầu thu camera, tạm giữ tài sản, đồ vật, tài liệu; sơ đồ chỉ dẫn hiện trường; bản ảnh khai thác dữ liệu trích xuất từ camera giám sát; kết luận định giá tài sản; lời khai của bị hại, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 13 giờ ngày 17/11/2022, trên Quốc lộ 1A tại khu vực tổ dân phố Đọ Xá, phường Thanh châu, thành phố Phủ Lý, Vũ Văn H đã dùng thủ đoạn nguy hiểm sử dụng xe môtô nhãn hiệu HONDA Wave Alpha, đeo biển kiểm soát: 90F1- xxxx điều khiển từ phía sau bất ngờ áp sát bà Phạm Thị M là người đang điều khiển xe máy điện đi cùng chiều rồi dùng tay phải giật được chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA C20 của bà M để ở hộc đựng đồ trên xe máy điện trị giá 500.000 đồng. Hành vi nêu trên của bị cáo Vũ Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Cướp giật tài sản” với tình tiết định khung hình phạt “dùng thủ đoạn nguy hiểm” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
4.1. Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhân thân xấu do đã từng bị kết án về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, bị xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi: “Cất giữ, sử dụng trái phép chất ma túy”, “Đánh bạc” và bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có thời hạn (đều đã được xóa án tích và hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính).
4.2 Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định của Bộ luật Hình sự.
4.3. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội đã thực hiện nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt:
5.1. Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ rất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo thực hiện tội phạm với thủ đoạn nguy hiểm đó là sử dụng xe môtô bất ngờ áp sát người đi đường để thực hiện hành vi cướp giật, chiếm đoạt bằng được tài sản của họ khi thấy có sơ hở, mất cảnh giác trong việc quản lý tài sản, do đó hành vi của bị cáo đã thể hiện sự manh động, liều lĩnh, coi thường pháp luật, không những gây hậu quả làm thiệt hại về tài sản mà còn có thể gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng cho người khác, gây mất trật tự, trị an, tạo nên tâm lý bức xúc, lo ngại trong nhân dân. Vì vậy, cần có mức hình phạt nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện và nhân thân xấu của bị cáo mới có đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, ngăn chặn phòng ngừa tội phạm.
5.2. Hình phạt bổ sung: Do bị cáo là lao động tự do, bản thân nghiện ma túy không có nghề nghiệp, thu nhập; hậu quả thiệt hại về tài sản đã gây ra cho bị hại không lớn nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo. [6] Đối với người nam giới theo bị cáo khai là người đã mua lại chiếc điện thoại bị cáo chiếm đoạt của bị hại, quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã áp dụng các biện pháp nghiệp vụ để xác minh nhưng không xác định được đặc điểm nhân thân, lai lịch của người này do đó không có cơ sở để xem xét, xử lý là có căn cứ.
[7] Về trách nhiệm dân sự:
7.1. Đối với tài sản bị cáo đã chiếm đoạt của bà Phạm Thị M là chiếc điện thoại di động NOKIA C20, quá trình điều tra Cơ quan điều tra không thu hồi lại được, bị hại đã có yêu cầu đối với bị cáo về việc phải bồi thường giá trị thiệt hại tài sản tương đương số tiền là 500.000 đồng. Xét thấy, thiệt hại về tài sản của bị hại là do hành vi trái pháp luật của bị cáo gây ra nên bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường toàn bộ. Do yêu cầu bồi thường thiệt hại của bị hại là có căn cứ và bị cáo chưa thực hiện việc bồi thường nên sẽ buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại giá trị tài sản đã chiếm đoạt theo yêu cầu của bị hại và quy định của pháp luật tại Điều 48 của Bộ luật Hình sự, các Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật Dân sự.
[8] Về xử lý vật chứng của vụ án:
8.1. Đối với chiếc xe môtô nhãn hiệu SYM, biển kiểm soát: 90B1-857.40, quá trình điều tra do xác định đó là tài sản hợp pháp của anh Lương Văn Đ, không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh Đ. Hội đồng xét xử xét thấy việc xử lý vật chứng đối với tài sản này của Cơ quan điều tra là có căn cứ, đúng pháp luật, do đó không đặt ra xem xét.
8.2. Đối với chiếc xe môtô nhãn hiệu HONDA Wave Alpha, quá trình điều tra đã xác định đây là tài sản của anh Nguyễn Minh D giao cho bị cáo Vũ Văn H mượn để đi lại, anh D không biết bị cáo sử dụng chiếc xe làm phương tiện để phạm tội. Về nguồn gốc chiếc xe anh D khai do mua lại của người khác từ lâu, có đầy đủ giấy tờ nhưng đã bị mất trong quá trình sử dụng, kết quả xác minh và giám định hồ sơ kỹ thuật của xe trong quá trình điều tra xác định chiếc xe có nguồn gốc do Công ty HONDA Việt Nam sản xuất và xuất bán thương mại ra thị trường, số khung, số máy của xe là nguyên thủy do nhà sản xuất đóng, xe chưa được đăng ký và không có trong cơ sở dữ liệu vật chứng, do đó xác định chiếc xe môtô không phải là vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành thuộc trường hợp phải tịch thu sung vào ngân sách nhà nước mà thuộc quyền quản lý hợp pháp của anh D nên giao trả lại cho anh D tiếp tục quản lý. Anh D phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc sở hữu hợp pháp chiếc xe và đăng ký lưu hành xe theo đúng quy định.
8.3. Đối với 01 biển kiểm soát 90F1- xxxx gắn trên xe môtô HONDA Wave Alpha thu giữ của anh Nguyễn Minh D: Quá trình điều tra đã xác định đây là biển kiểm soát của xe môtô nhãn hiệu Wakeup, số khung *00501067*, số máy *Y0059464*, xe đăng ký lần đầu ngày 19/10/2000, chủ sở hữu xe là ông Nguyễn Văn Q. Do ông Q xác định xe môtô biển kiểm soát 90F1- xxxx ông đã bán cho người khác không quen biết từ năm 2008 và biển số xe này không có trong cơ sở dữ liệu vật chứng, do đó xác định chiếc biển kiểm soát 90F1- xxxx thu giữ nêu trên là biển giả, thuộc vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.
8.4. Đối với 01 áo chống nắng dài tay màu xám có mũ trùm đầu, 01 quần bò ngố màu xanh, 01 đôi dép nhựa màu xanh, 01 mũ bảo hiểm dạng mũ nửa đầu màu đỏ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu ITEL IT2173 màu xanh là những tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến vụ án nên sẽ trả lại cho bị cáo.
8.5. Đối với 03 thẻ nhớ USB ghi dữ liệu hình ảnh, âm thanh đã được niêm phong (theo hồ sơ vụ án) là tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm nên sẽ lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171, Điều 38, Điều 47, Điều 48, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, các Điều 329, 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật Dân sự; Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:
1. Tuyên bố bị cáo Vũ Văn H phạm tội: “Cướp giật tài sản”. Xử phạt bị cáo 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 15/12/2022.
2. Trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Vũ Văn H phải bồi thường giá trị thiệt hại về tài sản cho bà Phạm Thị M là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng).
Trường hợp bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong nếu bị cáo chậm thanh toán khoản tiền phải bồi thường thì hàng tháng phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
3. Xử lý vật chứng:
3.1. Giao trả lại anh Nguyễn Minh D 01 (một) xe môtô nhãn hiệu HONDA Wave Alpha, sơn màu đỏ, số khung: RLHHC080X2Y082242, số máy: HC08E- 0082272, đã qua sử dụng. Anh D phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc sở hữu hợp pháp chiếc xe và đăng ký lưu hành xe theo đúng quy định.
3.2. Trả lại cho bị cáo Vũ Văn H 01 (một) áo chống nắng dài tay, màu xám, loại có mũ trùm đầu, trên ngực áo có in chữ “D&FASHION”; 01 (một) quần bò ngố, màu xanh, gắn nhãn “GENVIET 30JEANS”; 01 (một) đôi dép nhựa màu xanh, trên dép in logo hình quả táo cùng chữ “HV”; 01 (một) mũ bảo hiểm dạng mũ nửa đầu, màu đỏ, trên mũ in chữ “C&H HELMET”; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu ITEL IT2173, màu xanh, số IMEI: 359077212770221, bên trong lắp 01 (một) Sim Mobifone trên Sim in dãy số: 8401210833742503 và 01 (một) Sim Vinaphone trên Sim in dãy số: 89840200011187469786 được niêm phong trong phong bì ghi ký hiệu: “ĐTĐKT”, đã qua sử dụng.
3.3. Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) biển kiểm soát: 90F1- xxxx (được gắn trên xe môtô HONDA Wave Alpha, màu đỏ, số khung: RLHHC080X2Y082242, số máy: HC08E-0082272, xe đã qua sử dụng).
Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 02/03/2023.
4. Án phí: Buộc bị cáo Vũ Văn H nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 32/2023/HS-ST về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 32/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/04/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về