Bản án về tội cướp giật tài sản số 27/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 11/03/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 3 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 31/2022/HSST, ngày 21 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Lý Văn C(tên gọi khác: Không) - Sinh ngày 02/6/1999;

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã N, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Họ và tên cha: Lý Văn K, sinh năm 1977. Họ và tên mẹ: Hoàng Thị L, sinh năm 1977. Cùng trú tại: Thôn N, xã N, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Không.

Tiền sự: 01 (Ngày 31/12/2021, bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo Quyết định số 288/QĐ-UBND của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Nông Thượng, thành phố Bắc Kạn) .

Ngày 04/02/2022, có hành vi “Cướp giật tài sản”, ngày 09/02/2022 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Kạn khởi tố, điều tra về hành vi nêu trên.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Bắc Kạn từ ngày 04/02/2022 đến nay có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1960, trú tại: Tổ 14, phường Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn (có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Lý Văn K, SN: 1977, Trú tại: Thôn N, xã N, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 04/02/2022, sau khi uống thuốc Methadone tại Cơ sở điều trị thay thế nghiện các chất kích thích dạng thuốc phiện thuộc tổ 9, phường Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, Lý Văn Cđiều khiển xe môtô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng đen, mang BKS 97B1-129.65 đi theo đường Tây Minh Khai sau đó chuyển hướng ra đường Nguyễn Thị Minh Khai xuống trung tâm thành phố Bắc Kạn để về nhà. Khi đi đến khu vực đường tròn phía trước Công ty điện lực tỉnh Bắc Kạn, Cthấy bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1960, trú tại tổ 14, phường Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đang điều khiển xe môtô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu xám, mang BKS 97B1-610.99 đi phía trước cùng chiều. Quan sát thấy ở túi áo khoác bên trái của bà T có 01(một) sấp tiền (Việt Nam đồng) lộ một nửa ra ngoài nên Cnảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền trên. Sau đó, Cđiều khiển xe mô tô đi sát theo sau xe mô tô của bà T. Khi đi đến khu vực trước cổng Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng tỉnh Bắc Kạn thuộc tổ 4, phường Đức Xuân, thành phố Bắc Kạn, quan sát thấy vắng người nên Ctăng ga cho xe môtô đi song song và áp sát phía bên trái xe mô tô bà T đang điều khiển, rồi dùng tay phải móc vào túi áo khoác bên trái của bà T để giật lấy số tiền trong túi áo nhưng do túi áo khoác của bà T nhỏ, hẹp nên khi Crút tay ra thì bị vướng lại nên kéo cả bà T cùng xe môtô về phía Clàm hai xe mô tô va vào nhau khiến Cvà bà T cùng ngã ra đường. Lúc này, sấp tiền từ túi áo khoác bên trái của bà T rơi ra và văng về phía trước đầu xe mô tô Cđiều khiển, Cliền dùng tay trái nhặt số tiền nêu trên còn tay phải vặn ga xe môtô để bỏ chạy, bà T dùng hai tay bám vào chắn bùn phía sau xe của Cđể ngăn cản nhưng không được. Sau khi cướp giật được tiền và bỏ chạy khỏi khu vực gây án, Cđiều khiển xe đi theo hướng ra đường Kon Tum. Khi đi được khoảng 200m, Cnhét số tiền vừa cướp giật được vào túi áo khoác rồi đi theo đường Kon Tum hướng xuống Thái Nguyên rồi rẽ đi theo đường ra Trường Cao đẳng nghề Bắc Kạn và đi về nhà tại Thôn N, xã N, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. Khi về đến nhà, Cvào phòng ngủ của mình và lấy số tiền vừa cướp giật được ra đếm được tổng số tiền là 6.810.000đ (sáu triệu tám trăm mười nghìn đồng). Sau đó, Ccầm toàn bộ số tiền vừa chiếm đoạt được rồi điều khiển xe môtô BKS: 97B1 – 129.65 lên đến khu vực chợ Đức Xuân, thành phố Bắc Kạn mua 01 quần bò, 01 áo phao và 01 đôi giầy hết 860.000đ (tám trăm sáu mươi nghìn đồng) sau đó lại đi về nhà. Khi về đến nhà, Ccho bố đẻ là ông Lý Văn K số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), số tiền còn lại là 5.750.000đ (năm triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) Cgiữ lại để chi tiêu cá nhân. Đến 18 giờ cùng ngày, Cbị Công an thành phố Bắc Kạn triệu tập về trụ sở để làm việc và kiểm tra, thu giữ số tiền 5.750.000đ (năm triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) do Cphạm tội mà có.

Tại Cơ quan điều tra, Lý Văn Ckhai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu trên.

* Về vật chứng: Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tạm giữ tại hiện trường số tiền Việt Nam đồng là: 240.000đ (hai trăm bốn mươi nghìn đồng) là tiền của bà Nguyễn Thị T.

Tạm giữ của Lý Văn Cương: 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát: 97B – 129.65 nhãn hiệu YAMAHA sirius, màu sơn trắng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ITEL màu đen, loại máy có bàn phím; 01 (một) mũ bảo hiểm màu da cam nhãn hiệu Napoli; 01 (một) đôi giầy màu đen nhãn hiệu Pettino; 01 (một) áo phao màu xanh rêu sẫm; 01 (một) quần vải màu ghi xám; 01 (một) áo phao màu đen, ngực áo bên trái có dòng chữ “OEEP WNFSIN”; 01 (một) áo len màu xanh, đen trước ngực áo có ghi dòng chữ “BURNED”; 01 (một) quần bò màu xanh; 01 (một) đôi giầy thể thao màu đen, trắng; Số tiền 5.750.000đ (năm triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

Tạm giữ của ông Lý Văn K số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Đối với số tiền 860.000đ (tám trăm sáu mươi nghìn đồng), Lý Văn Cđã sử dụng để mua đồ dùng cá nhân nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

Bản cáo trạng số: 09/CT-VKSTP ngày 17/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Lý Văn Cvề tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, điều luật có nội dung:

“1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.” Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như cáo trạng đã nêu. Đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Lý Văn Cphạm tội “Cướp giật tài sản” - Áp dụng điểm d, khoản 2 Điều 171; Điều 38; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Lý Văn Ctừ 42 đến 48 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không phạt bổ sung.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Trả lại cho bị cáo:

+ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ITEL màu đen, loại máy có bàn phím;

+ 01 (một) mũ bảo hiểm màu da cam nhãn hiệu Napoli;

+ 01(một) đôi giầy màu đen nhãn hiệu Pettino;

+ 01 (một) áo phao màu xanh rêu sẫm;

+ 01 (một) quần vải màu ghi xám;

+ 01(một) áo phao màu đen, ngực áo bên trái có dòng chữ “OEEP WNFSIN”;

+ 01 (một) áo len màu xanh, đen trước ngực áo có ghi dòng chữ “BURNED”;

+ 01 (một) quần bò màu xanh;

+ 01 (một) đôi giầy thể thao màu đen, trắng.

- Về trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị T không yêu cầu Lý Văn Cphải trả lại số tiền 860.000đ (tám trăm sáu mươi nghìn đồng) mà Csử dụng mua dầy, áo, quần. Do bị hại cho bị cáo mà không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nữa nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với số tiền 5.750.000đ (năm triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) và số tiền tạm giữ của ông Lý Văn K số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), cơ quan điều tra đã trả cho bị hại T nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét nữa.

- Đối với 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát: 97B – 129.65 nhãn hiệu YAMAHA sirius, màu sơn trắng, cơ quan điều tra đã trả cho ông Lý Văn Knên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét nữa.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp

[2]. Về tội danh, Hội đồng xét xử xét thấy: Tại phiên tòa, bị cáo Lý Văn Cthành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo là có căn cứ, phù hợp với các lời khai của người bị hại, kết quả khám nghiệm hiện trường và các tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở để khẳng định:

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 04/02/2022, tại đoạn đường thuộc tổ 4, phường Đức Xuân, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, Lý Văn Ccó hành vi điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng đen mang BKS 97B1 – 129.65 đi áp sát xe mô tô BKS 97B1-610.99 do bà Nguyễn Thị T điều khiển đi cùng chiều rồi thực hiện hành vi cướp giật số tiền 6.810.000đ (sáu triệu tám trăm mười nghìn đồng) của bà Nguyễn Thị T, làm cho bà T bị ngã xuống đường, đồng thời bị cáo nhanh chóng tẩu thoát.

Hành vi nêu trên của Lý Văn C đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác. Xét thấy việc truy tố, xét xử bị cáo Lý Văn Cvề tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương. Vì vậy, buộc bị cáo phải chịu một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

* Về nhân thân: Bị cáo Cchưa có tiền án, có 01 tiền sự (ngày 31/12/2021, bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường theo Quyết định số 288/QĐ-UBND của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Nông Thượng, thành phố Bắc Kạn. Ngày 04/02/2022, có hành vi “Cướp giật tài sản”.

* Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên Tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có ông nội là Lý Văn Lâm là Ủy viên ban chấp hành hội thanh niên xung phong xã, được ủy ban nhân dân xã Nông Thượng, thành phố Bắc Kạn tặng giấy khen đã có thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ phát triển Kinh tế- Xã hội, Quốc phòng- An ninh năm 2019. Có bà nội là Phạm Thị Thìn được ban chấp hành trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tặng Kỷ Niệm chương năm 1999, tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do vậy bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

* Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Đối với các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt.

[4] Về bồi thường trách nhiệm dân sự: Không.

[5] Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Cần trả lại cho bị cáo những vật chứng sau do không liên quan đến vụ án:

+ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ITEL màu đen, loại máy có bàn phím;

+ 01 (một) mũ bảo hiểm màu da cam nhãn hiệu Napoli;

+ 01(một) đôi giầy màu đen nhãn hiệu Pettino;

+ 01 (một) áo phao màu xanh rêu sẫm;

+ 01 (một) quần vải màu ghi xám;

+ 01(một) áo phao màu đen, ngực áo bên trái có dòng chữ “OEEP WNFSIN”;

+ 01 (một) áo len màu xanh, đen trước ngực áo có ghi dòng chữ “BURNED”;

+ 01 (một) quần bò màu xanh;

+ 01 (một) đôi giầy thể thao màu đen, trắng. Đối với số vật chứng gồm:

Số tiền 240.000đ tạm giữ của bà Nguyễn Thị T. 200.000đ tạm giữ của ông Lý Văn Kvà số tiền 5.750.000đ Tạm giữ của Lý Văn Cương. Là tài sản của bị hại Nguyễn Thị T nên trong quá trình điều tra cơ quan công an đã trả lại cho chị T là đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa chị T không yêu cầu gì nữa nên hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với số tiền 860.000đ bị cáo đã sử dụng mua quần, áo, dầy, bị hại cho bị cáo, không yêu cầu bị cáo phải trả nữa nên hội đồng xét xử không xem xét.

* Án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố: Bị cáo Lý Văn Cphạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d, khoản 2 Điều 171; Điều 38; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Lý Văn C42 (bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/02/2022.

* Trách nhiệm dân sự: Không.

* Vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Trả lại cho bị cáo:

+ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ITEL màu đen, loại máy có bàn phím;

+ 01 (một) mũ bảo hiểm màu da cam nhãn hiệu Napoli;

+ 01(một) đôi giầy màu đen nhãn hiệu Pettino;

+ 01 (một) áo phao màu xanh rêu sẫm;

+ 01 (một) quần vải màu ghi xám;

+ 01(một) áo phao màu đen, ngực áo bên trái có dòng chữ “OEEP WNFSIN”;

+ 01 (một) áo len màu xanh, đen trước ngực áo có ghi dòng chữ “BURNED”;

+ 01 (một) quần bò màu xanh;

+ 01 (một) đôi giầy thể thao màu đen, trắng.

Tình trạng, số lượng vật chứng theo như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Bắc Kạn và chi Cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn.

* Án phí: Áp dụng điều 136 BLTTHS, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội bị cáo Lý Văn C phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành bản án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 27/2022/HS-ST

Số hiệu:27/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;