Bản án về tội cướp giật tài sản số 25/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THAN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 25/2020/HS-ST NGÀY 17/07/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 17/7/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2020/TLST-HS, ngày 24/6/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2020/QĐXXST-HS ngày 06/7/2020 đối với bị cáo:

Lò Văn S – Sinh ngày 10/9/1999; Nơi ĐKHKTT: Bản Nà Phái xã P huyện T tỉnh L; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn B – Sinh năm: 1965 và bà: Đỗ Thị N – Sinh năm: 1966 (đã chết); Mẹ nuôi Lò Thị Ng – Sinh năm: 1973 Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không.

Bị cáo có 01 tiền sự: Ngày 21/02/2019, Lò Văn S bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Mường Cang, huyện T ra Quyết định số 01/QĐ-XPHC xử phạt số tiền 2.500.000 đồng về hành vi vi phạm hành chính: “ Xâm phạm đến sức khỏe của người khác”. Đã chấp hành xong quyết định xử phạt nhưng tính đến ngày thực hiện hành vi phạm tội chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

Sau khi bị khởi tố về tội: “ Cướp giật tài sản”, Lò Văn S thực hiện hành vi: “Trộm cắp tài sản” bị Trưởng Công an xã P ra Quyết định số 05/QĐ-XPHC ngày 01/4/2020.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ hồi 23 giờ 50 phút ngày 17/02/2020 đến hồi 23 giờ 50 phút ngày 26/02/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã P. Trong thời gian áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo vi phạm nghĩa vụ. Ngày 31/3/2020, Cơ quan điều tra Công an huyện T ra Lệnh tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T (Có mặt).

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị Ng - Sinh năm: 1947 (vắng mặt) Đại diện theo ủy quyền của bà Ng là chị: Nguyễn Thúy H – Sinh năm: 1982; Địa chỉ: Bản Nà Phái, xã P, huyện T, tỉnh L (Có mặt).

- Người có quyền lợi liên quan: Anh Nguyễn Văn H - Sinh năm: 1973 Chị Lường Thị Th – Sinh năm: 1994 Đều có địa chỉ: Bản Nà Phái, xã P, huyện T, tỉnh L (vắng mặt có lý do).

Cháu Đào Ngọc H1 – Sinh ngày: 07/9/2006 (có mặt).

Đại diện theo pháp luật của cháu H1 là anh Đào Ngọc H2 – Sinh năm: 1978; Địa chỉ: Bản Nà Phái, xã P, huyện T, tỉnh L (vắng mặt).

Chị Nguyễn Thúy H – Sinh năm: 1982 – là đại diện theo pháp luật cho cháu H1 tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Lò Văn C – Sinh ngày: 27/7/2005;

Người đại diện theo pháp luật của cháu C là chị Đào Thị H – Sinh năm: 1974 và anh Lò Văn X – Sinh năm: 1967; Địa chỉ: Bản Nà Phái, xã P, huyện T, tỉnh L (vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 17/02/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T nhận được đơn trình báo của bà Nguyễn Thị Ng; SN – 1947, trú tại: bản Nà Phái, xã P, huyện T có nội dung: bà Ng bị một người cướp giật tiền và thẻ cào điện thoại. Sau khi tiếp nhận đơn trình báo, Cơ quan điều tra Công an huyện T đã tiến hành kiểm tra, xác minh, xác định đối tượng thực hiện hành vi cướp giật tài sản là Lò Văn S, sinh ngày: 10/9/1999, trú tại: bản Nà Phái, xã P, huyện T). Hồi 23 giờ 50 phút ngày 17/02/2020, Cơ quan điều tra Công an huyện T đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lò Văn S về hành vi cướp giật tài sản, thu giữ của S 01 thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng (S khai do cướp giật của bà Ng mà có).

Quá trình điều tra, Lò Văn S khai nhận: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 17/02/2020, Lò Văn S điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave α (Alpha), biển kiểm soát 25T1 – xxxxx (thuộc sở hữu của ông Lò Văn B – bố đẻ S) đi từ nhà S đến cửa hàng tạp hóa của bà Nguyễn Thị Ng ở bản Nà Phái, xã P huyện T mục đích để mua nước uống. Khi đến cửa hàng, S đi vào bên trong thì nhìn thấy trên bàn để nước ngọt cạnh vị trí S đứng có một chiếc túi vải (dạng ví) màu đỏ - đen, S nghĩ bên trong túi có tiền và tài sản nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. S không mua nước nữa mà giả vờ hỏi cháu Đào Ngọc H1 (SN: 07/9/2006 – là cháu nội bà Ng đang bán hàng hộ) mua gói kẹo ngô. Cháu H1 không biết già bán nên đi vào trong cách vị trí S đứng 2,3 mét để hỏi bà Ng đang ngồi trên giường quay mặt về phía S cách vị trí S đứng 3,78 mét. Thấy cháu H1 và bà Ng sơ hở trong việc quản lý tài sản, S nhanh chóng lấy chiếc túi vải (dạng ví) màu đỏ - đen rồi đi ra ngoài lên xe mô tô điều khiển bỏ chạy. Cháu H1 đuổi theo hô: “Cướp! Cướp” nhưng không ai bắt giữ được S. Trong lúc S thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản thì bà Ng và cháu H1 đều nhìn thấy. Sau khi cướp giật được tài sản của bà Ng, S điều khiển xe mô tô đi vào đường K7 thuộc bản Nà Phái, xã P, huyện T, S dừng xe mở chiếc túi vải dạng ví màu đỏ đen lấy toàn bộ số tiền 400.000 đồng (gồm các loại tiền cí mệnh giá 10.000 đồng, 5.000 đồng, 2.000 đồng, 1.000 đồng) và 29 thẻ cào điện thoại gồm: 11 thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng; 12 thẻ cào Viettel mệnh giá 20.000 đồng; 06 thẻ cào điện thoại Vinaphone mệnh giá 20.000 đồng. S cất giấu tiền và thẻ cào điện thoại vào trong túi quần còn chiếc túi vải dạng ví màu đỏ đen S bỏ lại ven đường. Khoảng 22 giờ cùng ngày, S đi đến cửa hàng tạp hóa của vợ chồng anh Nguyễn Văn H (SN: 1973) và chị Lường Thị Th (SN: 1994) tại bản Đội 9, xã P hỏi bán thẻ cào điện thoại và đổi tiền lẻ. S bán 28 thẻ cào điện thoại cho anh H, chị Th lấy số tiền 650.000 đồng, gồm 10 thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng; 12 thẻ cào Viettel mệnh giá 20.000 đồng; 06 thẻ cào điện thoại Vinaphone mệnh giá 20.000 đồng. S đổi tiền lẻ 380.000 đồng chiếm đoạt của bà Ng cho anh H, chị Th lấy số tiền chẵn tương ứng 380.000 đồng. Khi bán thẻ cào điện thoại, S nói dối anh H, chị Th đó là những thẻ cào điện thoại của chị gái S không sử dụng hết mang bán. S giữ lại 01 thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng để sử dụng. Sau đó, S điều khiển xe đi về nhà, trên đường đi S mua 01 chiếc khẩu trang giá 10.000 đồng. Về đến nhà, S cất giấu tổng số tiền 1.040.000 đồng chiếm đoạt được của bà Ng trong nhà vệ sinh không cho ai biết. Hồi 23 giờ 50 phút cùng ngày, Cơ quan điều tra thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với S, thu giữ 01 thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng.

Ngay sau khi tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lò Văn S, Cơ quan điều tra phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện T tiến hành khám nghiệm hiện trường nơi S cất giấu tài sản do cướp giật mà có. Quá trình khám nghiệm, phát hiện, thu giữ trong nhà vệ sinh của gia đình S số tiền 1.040.000 đồng và 02 mảnh giấy màu trắng S khai dùng để gói Heroine sử dụng (đã bị thấm nước), thu giữ tại khu vực S mở túi vải dạng ví màu đỏ - đen lấy tiền và thẻ cào điện thoại 01 chiếc túi dạng ví bằng vải màu đỏ - đen (bên trong không có tài sản).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 10 ngày 25/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện T kết luận: 11 thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng; 12 thẻ cào Viettel mệnh giá 20.000 đồng; 06 thẻ cào điện thoại Vinaphone mệnh giá 20.000 đồng có tổng trị giá 910.000 đồng; 01 chiếc túi dạng ví bằng vải màu đỏ - đen không có giá trị sử dụng. Số tài sản Lò Văn S cướp giật, chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị Ng có tổng trị giá 1.310.000 đồng.

Vật chứng của vụ án gồm:

+ Vật chứng thu giữ của Lò Văn S gồm: 01 thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng (chưa sử dụng); 01 chiếc áo khoác dài tay màu trắng; 01 chiếc khẩu trang (do S tự giao nộp).

+ Vật chứng tạm giữ của anh Nguyễn Văn H: 10 thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng (chưa sử dụng) ; 12 thẻ cào Viettel mệnh giá 20.000 đồng (11 thẻ chưa sử dụng, 01 thẻ đã sử dụng); 06 thẻ cào điện thoại Vinaphone mệnh giá 20.000 đồng (chưa sử dụng).

+ Vật chứng tạm giữ của ông Lò Văn B: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave α (Alpha), biển kiểm soát 25T1- xxxxx; 01 chìa khóa xe; 01 mũ bảo hiểm.

+ Vật chứng thu giữ khi khám nghiệm hiện trường: số tiền 1.040.000 đồng; 02 mảnh giấy trắng, 01 chiếc túi dạng ví bằng vải màu đỏ đen.

Căn cứ đơn đề nghị của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án, trong các ngày 02/3/2020 và 10/4/2020, Cơ quan điều tra Công an huyện T đã ra quyết định xử lý vật chứng: trả cho ông Lò Văn B là chủ sở hữu hợp pháp gồm: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave α (Alpha), biển kiểm soát 25T1- xxxxx; 01 chìa khóa xe; 01 mũ bảo hiểm.

Trả cho chị Nguyễn Thúy H (là người đại diện theo ủy quyền của bị hại Nguyễn Thị Ng): 01 chiếc túi dạng ví bằng vải màu đỏ đen; 28 thẻ cào chưa sử dụng gồm: 11 thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng; 11 thẻ cào Viettel mệnh giá 20.000 đồng ; 06 thẻ cào điện thoại Vinaphone mệnh giá 20.000 đồng .

Đối với số tiền 1.040.000 đồng thu giữ khi khám nghiệm hiện trường, tại bản Kết luận giám định số 108 ngày 08/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L kết luận: Số tiền 1.040.000đồng gửi đến giám định là tiền thật.

Đối với 02 mảnh giấy màu trắng S khai dùng để gói Heroine để sử dụng, Cơ quan điều tra Công an huyện T đã có quyết định trưng cầu giám định và được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L trả lời từ chối giám định thành phần ma túy tại Công văn số 62 ngày 20/02/2020 do vượt quá khả năng chuyên môn của giám định viên.

Vật chứng còn lại của vụ án gồm: 01 chiếc áo khoác dài tay màu trắng;

01 chiếc khẩu trang tạm giữ của Lò Văn S; 01 thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 20.000 đồng (đã sử dụng) tạm giữ của anh Nguyễn Văn H; số tiền 1.040.000 đồng và 02 mảnh giấy màu trắng thu giữ của Lò Văn S khi khám nghiệm hiện trường, hiện đang được lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Bản cáo trạng số: 21/CT-VKS ngày 24/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Lò Văn S về tội: “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và bản cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo nội dung bản cáo trạng, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lò Văn S phạm tội: “Cướp giật tài sản”

Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 38 - Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Lò Văn S từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Khấu trừ 09 ngày tạm giữ từ hồi 23 giờ 50 phút ngày 17/02/2020 đến hồi 23 giờ 50 phút ngày 26/02/2020). Thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại của bị cáo tính từ ngày bị bắt, tạm giam ngày (31/3/2020).

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Thị Ng yêu cầu bị cáo có trách nhiệm bồi thường tổng số tiền 420.000 đồng trong đó có 400.000 đồng tiền mặt; trị giá thẻ cào đã sử dụng 20.000 đồng); những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn H, Lường Thị Th không yêu cầu bồi thường.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 171 - Bộ luật hình sự 2015 đối với bị cáo; xử lý vật chứng và các vấn đề khác theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không bổ sung ý kiến gì thêm, nhất trí và không tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T tỉnh L.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức hành vi của mình đã vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác tại Cơ quan điều tra, biên bản thực nghiệm điều tra, khám nghiệm hiện trường, nhận dạng, cùng các tài liệu và các chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận:

Tối ngày 17/02/2020, tại bản Nà Phái xã P huyện T tỉnh L, lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản, Lò Văn S đã thực hiện hành vi cướp giật tài sản, chiếm đoạt tiền và thẻ cào điện thoại có tổng trị giá 1.310.000 đồng của bà Nguyễn Thị Ng, mục đích để tiêu sài cá nhân.

Hành vi nêu trên của bị cáo Lò Văn S đã cấu thành tội: “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 171 của Bộ luật Hình sự 2015 như nội dung bản cáo trạng số: 21/CT-VKS ngày 24/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác, là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội trên địa bàn, gây hoang mang trong nhân dân. Là người đã trưởng thành, đủ khả năng nhận thức mọi hành vi xâm phạm đến tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Nhưng do bản chất lười lao động, muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà bị cáo đã bất chấp pháp luật cố ý thực hiện hành vi phạm tội như trên nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, nhận thức pháp luật còn nhiều hạn chế; bị cáo có ông nội là người có công với cách mạng. Vì vậy, cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

[5] Về tình tiết tăng nặng và nhân thân của bị cáo: Hội đồng xét xử nhận định: Bị cáo Lò Văn S chưa có tiền án, song trước khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi xâm phạm sức khỏe cho người khác. Sau khi khởi tố tiếp tục bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Trong vụ án này, bị hại là bà Nguyễn Thị Ng sinh năm: 1947, tính đến thời điểm bị cáo thực hiện hành vi vi phạm pháp luật bị hại bị tác động là người trên 70 tuổi, nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại điểm i khoản 1 Điều 52 – Bộ luật hình sự. Việc bị cáo đã bị xử phạt hành chính trước và sau khi khởi tố vụ án này không đủ sức răn đe bị cáo, cần phải lên một bản án cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo, lao động sớm trở thành con người có ích cho gia đình và xã hội.

Ý kiến luận tội của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, điều, khoản truy tố, mức hình phạt và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về trách nhiệm dân sự: trước khi mở phiên tòa và tại phiên tòa, bị hại đề nghị bị cáo hoàn trả lại số tiền 400.000 đồng đã chiếm đoạt và giá trị thẻ cào 20.000 đồng. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy số tiền 1.040.000 đồng thu giữ khi khám nghiệm hiện trường có cơ sở xử lý để trả lại cho bị hại nên không phải giải quyết TNDS giữa bị cáo và bị hại.

[7] Về hình phạt bổ sung: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”. Tuy nhiên, bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định. Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 171- Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[8] Biện pháp ngăn chặn: Cần áp dụng điều 329 – Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, tiếp tục tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo việc thi hành án, thời gian tạm giam sẽ được khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

[9] Về vật chứng của vụ án:

Căn cứ đơn đề nghị của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án, trong các ngày 02/3/2020 và 10/4/2020, Cơ quan điều tra Công an huyện T đã ra quyết định xử lý vật chứng: trả cho ông Lò Văn B là chủ sở hữu hợp pháp gồm: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave α (Alpha), biển kiểm soát 25T1- xxxxx; 01 chìa khóa xe; 01 mũ bảo hiểm.Trả cho chị Nguyễn Thúy H (là người đại diện theo ủy quyền của bị hại Nguyễn Thị Ng): 01 chiếc túi dạng ví bằng vải màu đỏ đen; 28 thẻ cào chưa sử dụng gồm: 11 thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 50.000 đồng; 11 thẻ cào Viettel mệnh giá 20.000 đồng ;

06 thẻ cào điện thoại Vinaphone mệnh giá 20.000 đồng nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Số tiền 1.040.000 đồng thu giữ khi khám nghiệm hiện trường, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay xác định: trong số tiền 1.040.000 đồng có 400.000 đồng là tiền mặt khi bị cáo chiếm đoạt được của bị hại Nguyễn Thị Ng, tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền nhất trí nhận lại tài sản 420.000 đồng từ số tiền trên. Số tiền còn lại 620.000 đồng là tiền bán thẻ điện thoại có được, do chị Th và anh H không có đề nghị bị cáo bồi hoàn lại số tiền này và cũng không có đề nghị nào khác, do vậy, Hội đồng xét xử tịch thu số tiền trên sung vào ngân sách nhà nước.

01 chiếc áo khoác dài tay màu trắng của bị cáo Lò Văn S, xét thấy không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo là phù hợp.

01 chiếc khẩu trang; 01 thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 20.000 đồng (đã sử dụng), 02 mảnh giấy màu trắng xét thấy không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Các vấn đề khác của vụ án:

Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo sử dụng xe mô tô biển kiểm soát 25T1-xxxxx làm phương tiện đi đến cửa hàng và bỏ chạy, hành vi của bị cáo Lò Văn S đã làm cho bị hại Ng thiệt hại về tài sản, chưa gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của bà Ng và cháu H1. Vì vậy, không có căn cứ kết luận hành vi cướp giật tài sản của bị cáo theo tình tiết định khung tăng nặng được quy định lần lượt tại khoản 2 Điều 171 – BLHS là “Phạm tội đối với người già yếu hoặc không có khả năng tự vệ ” và “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”.

Đối với anh Nguyễn Văn H, chị Lường Thị Th là những người đã mua thẻ cào điện thoại và đổi tiền lẻ cho Lò Văn S, quá trình điều tra xác định, chị Th, anh H không biết tiền và thẻ cào điện thoại là do S phạm tội mà có. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với anh H, chị Th là đúng quy định.

Đối với Lò Văn B là chủ sở hữu chiếc xe mô tô biển kiểm soát 25T1- xxxxx nhãn hiệu Honda loại Wave α. Quá trình điều tra xác định, ông B không biết việc Lò Văn S sử dụng chiếc xe mô tô vào việc cướp giật tài sản. Do vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với ông B là đúng quy định.

[11] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lò Văn S sinh sống tại vùng kinh tế có điều kiện khó khăn theo quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 28/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ. Tại phiên tòa bị cáo đề nghị được miễn án phí nên Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định.

Bị cáo, bị hại, đại diện theo ủy quyền của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, đại diện của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo: Lò Văn S phạm tội: “Cướp giật tài sản" .

1. Về hình phạt:

Căn cứ khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Lò Văn S 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Khấu trừ 09 ngày tạm giữ từ hồi 23 giờ 50 phút ngày 17/02/2020 đến hồi 23 giờ 50 phút ngày 26/02/2020. Bị cáo còn phải thi hành 23 (hai mươi ba) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 31/3/2020.

2. Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của bị hại chị Nguyễn Thúy H nhất trí nhận số tiền 420.000 đồng từ số tiền 1.040.000 đồng thu giữ được trong quá trình khám nghiệm hiện trường. Do đó, không phải giải quyết trách nhiệm dân sự giữa bị cáo và bị hại.

3. Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

- Trả lại cho bị hại Nguyễn Thị Ng có đại diện theo ủy quyền là chị Nguyễn Thúy H số tiền 420.000 đồng ( trong đó có 400.000 đồng tiền mặt và giá trị thẻ cào 20.000 đồng).

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 620.000 đồng.

- Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc khẩu trang; 01 thẻ cào điện thoại Viettel mệnh giá 20.000 đồng (đã sử dụng), 02 mảnh giấy màu trắng.

- Trả lại cho bị cáo Lò Văn S 01 chiếc áo khoác dài tay màu trắng.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/5/2020)

 4. Về án phí: Căn cứ Điều 135; Điều 136 – Bộ luật Tố tụng Hình sự. Điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Miễn 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn S.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, Điều 333 – Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, bị hại, đại diện theo ủy quyền của bị hại được quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đại diện của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo đối với phần bản án hoặc quyết định liên quan đến quyền lợi của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo đối với phần bản án hoặc quyết định liên quan đến quyền lợi của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định lên Toà án nhân dân tỉnh L để xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 25/2020/HS-ST

Số hiệu:25/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Than Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;