TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 23/2024/HS-ST NGÀY 12/03/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Trong ngày 12 tháng 3 năm 2024 tại Phòng xử A trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2024/TLST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2024/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:
Võ Minh L; sinh ngày 05/02/2005 tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú và chỗ ở: 263/16 Thạch Lam, phường PT, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Minh T và bà Võ Thị Kim L; vợ con chưa có; tiền án- tiền sự: không có;
Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông Nguyễn Xuân P, sinh năm 1973; địa chỉ: 310/2/6 Đất Mới, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, (vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Võ Thị Kim L, sinh năm: 1980; địa chỉ: 263/16 Thạch Lam, phường PT, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo Võ Minh L có luật sư Bùi Thới V- Là luật sư của Trung tâm trợ giúp pháp lý thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 04 giờ 20 phút 18/8/2023, Võ Minh L điều khiển xe mô tô biển số 59D2-401.xx, đến đậu xe trước nhà nhà 52C Hòa Bình, Phường 5, Quận 11. L vào quán mua thuốc hút, nhìn thấy ông Nguyễn Xuân P đang ngồi sử dụng điện thoại hiệu OPPO màu xanh đen, nên nảy sinh ý định chiếm đoạt bán lấy tiền tiêu xài.
Lúc này, L đi bộ đến dùng tay phải giật điện thoại của ông P rồi chạy bộ để tẩu thoát. Chiếc xe mô tô biển số 59D2-401.xx L bỏ lại hiện trường. Bị giật điện thoại, ông P đuổi theo nhưng không bắt giữ được L. Sau đó, L đón xe ôm về nhà tại số 263/16 Thạch Lam, phường PT, quận T. Khi về đến nhà, bà Võ Thị Kim L là mẹ L hỏi xe đang ở đâu thì L trả lời xe bị hư đang đưa đi sửa. Bà L kiểm tra hệ thống định vị được gắn trên xe thì phát hiện xe đang được để tại địa chỉ 52C Hòa Bình, Phường 5, Quận 11 nên đến kiểm tra. Tại đây, bà L biết L thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của ông P nên bà L về nhà đưa L đến Công an Phường 5, Quận 11 đầu thú, giao nộp điện thoại trên.
Tại Kết luận định giá tài sản số 82/KL-HĐĐGTS ngày 25/9/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân Quận 11 kết luận: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh đen, trị giá 2.050.000 đồng.
Tại Kết luận giám định Pháp y Tâm thần số 6438/KLGĐ ngày 28/9/2023 của Trung tâm Pháp y Tâm thần Bộ Y tế Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận tình trạng tâm thần của Võ Minh L, như sau:
“1.1. Về y học: Trước, trong, sau khi thực hiện hành vi phạm tội cho đến hiện tại, đối tượng Võ Minh L bị rối loạn hành vi ở những người có thích ứng xã hội (F91.2-ICD10).
1.2. Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Trước, trong, sau khi thực hiện hành vi phạm tội cho đến hiện tại, đối tượng Võ Minh L đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi”.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, Võ Minh L khai nhận hành vi phạm tội nêu trên, lời khai của L phù hợp với lời khai người bị hại, vật chứng thu giữ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Tại bản cáo trạng số 24/CT-VKSQ11 ngày 06 tháng 02 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố bị cáo Võ Minh L tội danh “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Võ Minh L đã khai nhận hành vi phạm tội như kết luận điều tra và cáo trạng truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh tụng gì và nói lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo được tiếp tục điều trị bệnh và được đi học.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 trình bày lời luận tội đối với bị cáo L, bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã thu hồi trả cho người bị hại, bị cáo đầu thú, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Võ Minh L từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo; đồng thời đề nghị hướng xử lý vật chứng như sau: Tịch thu tiêu hủy 01 mũ bảo hiểm màu đen, 01 áo thun màu đen, 01 quần Jeans dài màu xám vì không còn giá trị sử dụng.
Luật sư Bùi Thới V bào chữa cho bị cáo Võ Minh L: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trước khi phạm tội bị cáo là người có bệnh nên nhận thức hành vi của bị cáo có hạn chế; bị cáo phạm tội lần đầu, bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, bị cáo đầu thú và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Ngoài ra, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, xin Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo được điều trị bệnh.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
1. Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Vào lúc 04 giờ 20 phút ngày 18/8/2023, tại trước số 52C Hòa Bình, Phường 5, Quận 11, Võ Minh L đi bộ, dùng tay phải giật điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh đen trị giá 2.050.000 đồng của ông Nguyễn Xuân P rồi chạy bộ tẩu thoát.
Bị cáo bằng thủ đoạn công khai, nhanh chóng, bất ngờ chiếm đoạt tài sản của người khác rồi tẩu thoát. Hành vi của các bị cáo đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải xét xử bị cáo với mức án tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra.
Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu, tài sản đã được thu hồi trả cho người bị hại; bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, bị cáo đầu thú khai nhận hành vi phạm tội; bị cáo bị rối loạn hành vi khi thực hiện hành vi phạm tội và hiện đang điều trị bệnh nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Võ Minh L có nơi cư trú rõ ràng; có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo có 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Căn cứ Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, Hội đồng xét xử xét thấy không cần bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù cũng đủ răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 và người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự :
- 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh đen là tài sản của anh Nguyễn Xuân P, bị Võ Minh L chiếm đoạt, Cơ quan điều tra đã trả điện thoại trên cho anh Phong. Ông Phong không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- 01 xe mô tô biển số 59D2-401.xx, do Võ Minh L sử dụng đến nơi cướp giật tài sản. Qua điều tra xác định xe trên thuộc sở hữu của bà Võ Thị Kim L (mẹ của L). Ngày 18/8/2023, L sử dụng xe trên đi cướp giật tài sản bà L không biết, Cơ quan điều tra đã trả xe trên cho bà L. Tại phiên tòa hôm nay, bà L không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Về vật chứng vụ án: cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo 01 mũ bảo hiểm màu đen, 01 áo thun màu đen, 01 quần jeans dài màu xám: bị cáo không yêu cầu nhận lại và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
2. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 50; Khoản 1 Điều 171; điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Võ Minh L.
Tuyên bố bị cáo Võ Minh L phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Xử phạt bị cáo Võ Minh L 01 (một) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm, tính từ ngày tuyên án 12/3/2024.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường PT, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh để giám sát và giáo dục. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
Tịch thu và tiêu hủy 01 mũ bảo hiểm màu đen, 01 áo thun màu đen, 01 quần jeans dài màu xám vì không còn giá trị sử dụng (Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 100/LNK-ĐTTH ngày 18/10/2023).
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Võ Minh L phải chịu là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 23/2024/HS-ST về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 23/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về