Bản án về tội cướp giật tài sản số 23/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGHĨA LỘ, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 23/2023/HS-ST NGÀY 17/04/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 17/4/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Nghĩa Lộ xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 17/2023/TLST- HS ngày 20/3/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2023/QĐXXST- HS ngày 04/4/2023 đối với bị cáo:

Cầm Ngọc T. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh ngày 27/7/1993. Tại thị xã NL, tỉnh Yên Bái. Nơi cư trú: Bản V, xã A, thị xã NL, tỉnh Yên Bái. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Thái. Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: Lớp 9/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông Cầm Văn L, sinh năm 1970 và bà Ngân Thị B, sinh năm 1970. Chưa có vợ, con.

Tiền án: Bản án số 129/2020/HSST ngày 04/8/2020 của Tòa án nhân dân Quận Ba Đình, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/02/2021.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 12/02/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ, Công an thị xã NL, tỉnh Yên Bái. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Đồng Quang K - Sinh ngày 04/4/2018; cư trú tại: Tổ bản L, phường TT, thị xã NL, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt (Do Tòa án không triệu tập). Đại diện theo ủy quyền đồng thời là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Bị hại Đồng Quang K là ông Đồng Văn N – Sinh năm 1956. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Nơi cư trú: Tổ bản L, phường TT, thị xã NL, tỉnh Yên Bái. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Cầm Văn L, sinh năm 1970, Nghề nghiệp: Làm ruộng. Trú tại: Bản V, xã A, thị xã NL, tỉnh Yên Bái. Có mặt tại phiên tòa.

Lý Tòn K, sinh năm 1996, Nghề nghiệp: Sửa chữa, mua bán điện thoại. HKTT: Thôn GC, xã NL, huyện VC, tỉnh Yên Bái. Tạm trú tại: Tổ 6, phường TT, thị xã NL, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 ngày 15/01/2023, Cầm Ngọc T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, biển kiểm soát 21K1- xxx từ nhà tại Bản V, xã A đi lên trung tâm thị xã Nghĩa Lộ, khi đến khu vực nhà hàng BAMBOO thuộc tổ Bản L, phường TT thì nhìn thấy một cháu bé (Đồng Quang K, sinh ngày 04/4/2018) đang đi bộ ở lề đường, trên tay cầm 01 chiếc điện thoại di động. Quan sát thấy xung quanh không có người, T nảy sinh ý định chiếm đoạt nên đã điều khiển xe mô tô áp sát, dùng tay trái giật mạnh chiếc điện thoại trên tay cháu K rồi tăng tốc bỏ chạy. Sau đó T mang chiếc điện thoại trên đến cửa hàng mua bán điện thoại “KH” ở tổ 06 phường TT, thị xã NL bán cho Lý Tòn K, với giá 300.000 đồng. Số tiền này T đã chi tiêu cá nhân hết.

Đến ngày 12/02/2023 thì Cầm Ngọc T bị bắt giữ. Công an cũng đã thu giữ vật chứng là chiếc xe mô tô nêu trên.

Ngày 23/02/2023 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Nghĩa Lộ đã định giá và kết luận: Chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu SAMSUNG, Galaxy J7 mà Cầm Ngọc T chiếm đoạt của cháu Đồng Quang K, có trị giá thực tế là 450.000 đồng (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng).

Cáo trạng số 18/CT-VKS-NL, ngày 20/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghĩa Lộ, đã truy tố Cầm Ngọc T về tội “Cướp giật tài sản” quy định tại các điểm d và g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên luận tội đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm d, g khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 04 năm đến 05 năm tù. Xử lý vật chứng, tịch thu tiền phạm tội mà có, trả lại chiếc xe mô tô cho ông Cầm Văn L theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo nhận tội, không tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Đại điện theo ủy quyền đồng thời là người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị hại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại vì giá trị còn lại của điện thoại nhỏ.

- Người có quyền lợi liên quan Cầm Văn L đề nghị được nhận lại chiếc xe mô tô vì khi T lấy xe đi có hỏi mượn nhưng không biết việc T sử dụng xe để đi cướp giật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã được thực hiện hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Cầm Ngọc T đã thành khẩn khai nhận về hành vi mà mình đã thực hiện, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 15/01/2023, tại khu vực Nhà hàng Minh Anh BAMBOO thuộc tổ Bản L, phường TT, Cầm Ngọc T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, biển kiểm soát 21K1- xxx áp sát cháu Đồng Quang K, sinh ngày 04/4/2018 đang đi bộ ở lề đường, T dùng tay trái giật mạnh chiếc điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG, Galaxy J7 trị giá thực tế 450.000,đ trên tay cháu K rồi tăng tốc bỏ chạy.

Hành vi nêu trên của bị cáo Cầm Ngọc T là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân một cách công khai mà việc dùng thủ đoạn đi xe mô tô áp sát cháu Đồng Văn K nhanh chóng giật lấy điện thoại cháu K đang cầm trên tay còn có thể gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng của cháu K là trẻ em (chưa đủ 4 tuổi). Hành vi của bị cáo gây lo lắng trong nhân dân đã tác động ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội của địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Cầm Ngọc T về tội cướp giật tài sản với các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng quy định tại điểm d -“Dùng thủ đoạn nguy hiểm”, điểm g -“Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi” khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng nên phải bị xử lý, chịu hình phạt nghiêm khắc theo quy định của pháp luật hình sự.

[3] Về các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Ngoài việc phạm tội với hai tình tiết định khung hình phạt nêu trên, Cầm Ngọc T là người đang có án tích. Theo Bản án số 129/2020/HSST ngày 04/8/2020 của Tòa án nhân dân Quận Ba Đình, thành phố Hà Nội bị cáo Cầm Ngọc T bị xử phạt 12 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/02/2021, lần này cố ý phạm tội là tình tiết tăng nặng “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng nhận thấy: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội. Tại phiên tòa Đại diện theo ủy quyền đồng thời là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Bị hại Đồng Quang K là ông Đồng Văn N xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, được Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về nhân thân: Cầm Ngọc T Sinh năm 1993, là thanh niên có sức khỏe, đang độ tuổi lao động, nhưng không chịu khó rèn luyện tu dưỡng bản thân, sống buông thả, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sớm mắc nghiện ma túy, dẫn đến phạm tội rồi tái phạm.

[5] Với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo như trên, xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có đủ điều kiện để giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Hình phạt tù cũng tạo môi trường, điều kiện để bị cáo cai nghiện ma túy có kết quả, đồng thời góp phần răn đe giáo dục, phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Cầm Ngọc T là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm, không có thu nhập và tài sản, sống phụ thuộc vào cha mẹ nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Cầm Ngọc T cướp giật chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu SAMSUNG, Galaxy J7 trên tay cháu Đồng Quang K, có trị giá thực tế là 450.000 đồng. Quá trình điều tra chứng minh chiếc điện thoại này là của ông Đồng Văn N (ông Nội của cháu K). Đến nay điện thoại không thu hồi được nhưng giá trị còn lại nhỏ nên ông N không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Về xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ.

Bị cáo Cầm Ngọc T sử dụng chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, biển kiểm soát 21K1- xxx làm phương tiện phạm tội. Quá trình điều tra chứng minh chiếc xe này thuộc sở hữu của ông Cầm Văn L (Bố đẻ của Cầm Ngọc T), ông L không biết T lấy xe đi thực hiện hành vi phạm tội nên cần trả lại xe cho ông L quản lý sử dụng.

[8] Trong vụ án này:

Lý Tòn K là chủ cửa hàng mua bán điện thoại KH ở tổ 06 phường TT, thị xã NL đã mua chiếc điện thoại với giá 300.000,đ, sau đó bán cho một khách hàng nữ không biết tên và địa chỉ với giá 600.000,đ. Lý Tòn K không biết điện thoại do Cầm Ngọc T phạm tội mà có nên không phạm tội.

Cầm Ngọc T bán điện thoại cho Lý Tòn K, giá 300.000 đồng. Số tiền này T đã chi tiêu cá nhân hết. Đây là tiền do phạm tội mà có nên cần tịch thu (truy thu) nộp ngân sách.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Những đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo, Đại diện theo ủy quyền- Người bảo vệ quyền lợi cho bị hại là có căn cứ như Hội đồng xét xử đã nhận định nêu trên, cần được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Cầm Ngọc T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

1. Áp dụng các điểm d, g khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Cầm Ngọc T 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 12/02/2023.

2. Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu (Truy thu) nộp ngân sách: 300.000,đ (Ba trăm nghìn đồng) do Cầm Ngọc T phạm tội mà có.

- Trả lại cho Cầm Văn L chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, biển kiểm soát 21K1- xxx

3. Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Cầm Ngọc T phải chịu 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách.

4. Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo, Đại diện theo ủy quyền đồng thời là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Bị hại Đồng Quang K là ông Đồng Văn N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo phần bản án trực tiếp có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể tính từ ngày tuyên án, nếu vắng mặt thì tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 23/2023/HS-ST

Số hiệu:23/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Nghĩa Lộ - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;