Bản án về tội cướp giật tài sản số 16/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 16/2020/HS-ST NGÀY 15/06/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2020/TLST-HS, ngày 18 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2020/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Trọng M, sinh năm: 1993 tại huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang; tên gọi khác: Không có; nơi cư trú: Ấp TPA, thị trấn CT, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trọng Nghĩa và bà Nguyễn Hoàng Thoa; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: Có 01 tiền án, cụ thể: Theo bản án số 02/2017/HSST ngày 24/01/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/7/2017, chưa chấp hành nộp án phí hình sự sơ thẩm, hiện chưa được xóa tiền án; tiền sự: Không; nhân thân: Theo bản án số 11/2013/HSST ngày 18/4/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang xử phạt 01 năm tù, về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/01/2014, đã nộp án phí hình sự sơ thẩm xong vào tháng 6 năm 2013; bị cáo đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang để điều tra trong vụ án khác, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

Bà Đỗ Thị Hàng N – sinh năm: 1991; địa chỉ: Ấp 4, xã TH, huyện PH, tỉnh Hậu Giang. (có mặt) - Người có quyền L, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Tăng Tài L – sinh năm: 1990, địa chỉ: Ấp TPA, thị trấn CT, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang. (vắng mặt)

2. Ông Trần Văn T – sinh năm: 1969, địa chỉ: Ấp TP A, thị trấn CT, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang. (vắng mặt)

3. Ông Trần Duy P – sinh năm: 1985, địa chỉ: Khu vực 3, phường NB, thành phố NB, tỉnh Hậu Giang. (vắng mặt) - Người làm chứng:

Ông Đặng Văn Mến – sinh năm: 2001, địa chỉ: Ấp Thuận Phú A, xã Thuận An, huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long; Chỗ ở làm việc: Chi nhánh công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên Hòa Hà - Đại lý xăng dầu - Cửa hàng xăng dầu số 4 (gọi tắt là: Cửa hàng xăng dầu số 4) tại ấp Tân Phú A, thị trấn Cái Tắc, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ ngày 14/11/2019 bị cáo Nguyễn Trọng M đi bộ từ nhà đến nhà Nguyễn Văn T tại khu dân cư thị trấn Cái Tắc chơi, một lúc sau ông Nguyễn Văn Chánh Em là cha ruột của T hỏi mượn ông Trần Văn T (là em rể ông Chánh Em) chiếc xe mô tô biển kiểm soát 52Z1-X để cho T đi mua xăng về đổ vào máy cưa cây thì được ông T đồng ý. T lấy xe mô tô nói trên chạy đi mua xăng thì sẵn tiện M quá giang T để về nhà, khi đi trên đường T nói với M xe sắp hết xăng thì M nói M còn mười mấy ngàn và kêu T ghé đổ xăng. Khi đến khu vực Cửa hàng xăng dầu số 4 thuộc ấp Tân Phú A, thị trấn Cái Tắc, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang thì M nhìn thấy có một người phụ nữ ngồi trên xe mô tô Vision trong trạng thái xe dừng và ngồi trên xe bấm điện thoại nên M nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại của người phụ nữ. M kêu T dịnh xe để M xuống xe đi bộ đến chỗ bị hại theo từ hướng sau lưng bị hại N ra phía trước và dùng tay phải giật lấy chiếc điện thoại, khi lấy được điện thoại thì M chạy lại xe T đang chờ sẵn leo lên xe T tăng tốc chạy nhanh theo hướng thành phố Cần Thơ để tẩu thoát, đến đoạn rẽ về trung tâm xã Tân Phú Thạnh thì cả hai chạy vào lộ nông thôn về hướng thị trấn Cái Tắc. Khi đến gần chùa Khơmer thị trấn Cái Tắc M xuống xe đi bộ về nhà còn T chạy xe về nhà tại khu dân cư Thị trấn Cái Tắc trả xe cho ông T, bị hại N khi bị giật tài sản có truy hô nhưng không được ai hỗ trợ đuổi theo, sau đó chị N đến Công an thị trấn Cái Tắc trình báo sự việc.

Đến khoảng 18 giờ cùng ngày bị cáo M điện thoại cho Tăng Tài L hẹn gặp L để bán điện thoại cho L, nhưng khi gặp L nói không có tiền nên không mua, sau đó L điện thoại cho anh Trần Duy P làm nghề kinh doanh mua bán linh kiện, điện thoại cũ để hỏi bán dùm cho M thì anh P đồng ý mua với giá 4.500.000 đồng, L bỏ tiền của L 4.500.000 đồng đưa trước cho bị cáo M và sau đó L đem điện thoại xuống cho anh P và nhận tiền lại từ anh P.

Quá trình điều tra bị hại khai chiếc điện thoại bị cướp giật là điện thoại Iphone XS Max mua vào tháng 6 năm 2019 với giá 29.990.000 đồng; tại Bản kết luận định giá tài sản số: 07/KL.ĐGTS ngày 17/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành A đã định giá và kết luận: Chiếc điện thoại Iphone XS Max mà bị cáo M chiếm đoạt giá trị sử dụng còn lại là 92%, tương ứng giá trị là 27.590.800 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng truy tố và xin giảm nhẹ hình phạt; bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị chiếc điện thoại là 13.500.000đồng.

Tại Cáo trạng số 24/CT-VKS-HCTA, ngày 15 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A đã truy tố Nguyễn Trọng M về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo. Kiểm sát viên trình bày quan điểm luận tội, phân tích nhân thân, tính chất, mức độ, hậu quả đã gây nên; bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như là thành khẩn khai báo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Từ những phân tích đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng M phạm tội “Cướp giật tài sản”, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 171, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Trọng M từ 2 năm 06 tháng đến 3 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành bản án.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị điện thoại là 13.500.000đồng, bị cáo đồng ý bồi thường số tiền trên. Đây là sự tự thỏa thuận của bị cáo với bị hại, phù hợp với quy định của pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về xử lý vật chứng: Không có thu giữ nên không xử lý.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện về thẩm quyền, trình tự T tục đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo; bị hại; người có quyền L, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Xét về T tục tố tụng:

[2.1] Qua lời khai của bị cáo M thể hiện Nguyễn Văn T có vai trò giúp sức tích cực nhưng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A xác minh thì T đã bỏ địa P đi đâu, làm gì không biết, không làm việc được nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A có Công văn số 58/CSĐT-ĐTTH ngày 26/3/2020 gửi Phòng PC01 Công an tỉnh Hậu Giang để đề nghị phối hợp điều tra nhưng trong hồ sơ không thể hiện chứng cứ đã giao công văn này cho Phòng PC01 Công an tỉnh Hậu Giang là chưa chặt chẽ, cần rút kinh nghiệm.

[2.2] Qua lời khai của bị cáo M có trong hồ sơ: Sau khi bán điện thoại cướp giật được bị cáo điện thoại cho người phụ nữ ở Cái Răng, thành phố Cần Thơ mua ma túy với số tiền 2.500.000 đồng về để sử dụng và tiêu xài cá nhân hết nhưng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A không truy xét (khám xét) chỗ ở của bị cáo M xem có ma túy không là thiếu sót. Vì nếu khám xét có thu giữ được ma túy thì còn có dấu hiệu của tội Tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A cần rút kinh nghiệm.

[2.3] Tại phiên tòa người có quyền L, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Tăng Tài L, ông Trần Văn T, ông Trần Duy P và người làm chứng ông Đặng Văn Mến vắng mặt. Tuy nhiên, những người này đã có cung cấp lời khai rõ ràng trong hồ sơ nên sự vắng mặt không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án này nên căn cứ vào Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự vẫn tiến hành xét xử vắng mặt.

[3] Xét về nội dung vụ án:

[3.1] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Trọng M thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố phù hợp với lời khai của bị hại; người có quyền L, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng và các tình tiết chứng cứ khác có trong hồ sơ nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng khoảng 16 giờ ngày 14/11/2019 tại trước Cửa hàng xăng dầu số 4 thuộc ấp Tân Phú A, thị trấn Cái Tắc, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang bị cáo Nguyễn Trọng M đã thực hiện hành vi cướp giật tài sản là chiếc điện thoại Iphone XS Max trên tay của bị hại Đỗ Thị Hàng N, theo kết luận định giá của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thuộc huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang thì tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị là 27.590.800 đồng nên đã đủ các yếu tố cấu thành tội Cướp giật tài sản quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi của bị cáo không chỉ xâm phạm đến tài sản của người khác mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa P. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị kết án về hành vi hủy hoại tài sản của người khác, đã được xóa án tích, đã bị kết án về hành vi trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích, nhưng bị cáo vẫn không hối cải vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Điều này cho thấy tính xem thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để răn đe, giáo dục bị cáo thành công dân có ích.

[3.2] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp nên lần phạm tội này được xem là tái phạm nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[3.3] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng đã xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3.4] Xét về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường giá tri chiếc điện thoại theo yêu cầu của bị hại là 13.500.000đồng. Đây là sự tự nguyện của bị cáo phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[3.5] Về xử lý vật chứng: Không có thu giữ nên không xử lý.

[3.6] Theo lời khai của bị cáo M thì Nguyễn Văn T biết M xuống xe đi bộ lại chỗ bị hại Cướp giật tài sản và bị cáo M đưa xe cho T, sau khi bị cáo M cướp giật được tài sản thì T chở M chạy tẩu thoát nên có thể xem T là đồng phạm trong vụ án này. Tuy nhiên, qua xác minh của Cơ quan cảnh sát điều tra thì Nguyễn Văn T đã bỏ địa P đi đâu, làm gì không biết nên chưa làm việc được để xác định vai trò, trách nhiệm của Nguyễn Văn T. Nhằm không bỏ lọt người phạm tội nên kiến nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ xử lý sau đối với Nguyễn Văn T.

[3.7] Đối với Tăng Tài L và Trần Duy P khi tiêu thụ tài sản không biết được tài sản do phạm tội mà có nên không truy cứu trách nhiệm hình sự là phù hợp.

[3.8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí phần dân sự theo quy định của pháp luật.

[4] Xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều khoản áp dụng và hình phạt đối với bị cáo là phù hợp, có căn cứ nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trọng M phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 292, Điều 293, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trọng M 03 (ba) năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện bị cáo Nguyễn Trọng M có nghĩa vụ bồi thường cho bị hại Đỗ Thị Hàng N số tiền 13.500.000 đồng (mười ba triệu năm trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bị hại Đỗ Thị Hàng N có đơn yêu cầu thi hành án số tiền nêu trên nếu bị cáo Nguyễn Trọng M chậm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thì hàng tháng còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian và số tiền chậm trả.

3. Về xử lý vật chứng: Không có.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Nguyễn Trọng M phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 675.000đồng tiền án phí phần dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo; bị hại; người có quyền L và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền L và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan tới quyền L và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 16/2020/HS-ST

Số hiệu:16/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;