Bản án về tội cướp giật tài sản số 16/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 16/2020/HS-ST NGÀY 06/07/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2020/TLST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo: Trần Trung D, sinh ngày 04 tháng 5 năm 1988 tại huyện T, tỉnh Phú Thọ; nơi cư trú: Thôn K, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Phúc T, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1958; có vợ là Đặng Thị Y, sinh năm 1989 và có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2015, con nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 30/12/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Giang. Có mặt.

- Bị hại: Bà Bùi Thị N, sinh năm 1965; nơi cư trú: Tổ dân phố Q, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang. Vắng mặt có lý do - Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Hoàng Ngọc Q, sinh năm 1958; nơi cư trú: Tổ dân phố Q, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang. Vắng mặt có lý do + Bà Lý Thị T, sinh năm 1967; nơi cư trú: Thôn K, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang. Vắng mặt có lý do

- Người làm chứng: Chị Đặng Thị Y, sinh năm 1989. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 20 phút ngày 30/12/2019, Trần Trung D, sinh năm 1988, trú tại thôn K, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang điều khiển xe mô tô màu đỏ đen, loại xe ARIBLADE, nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 23H9-xxxx đi từ nhà đến ngân hàng Agribank chi nhánh V, huyện B, tỉnh Hà Giang để gửi số tiền 10.100.000đ (Mười triệu một trăm nghìn đồng) vào tài khoản của vợ là chị Đặng Thị Y, sinh năm 1989, trú tại thôn K, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang và đi đón hàng. Khi đi đến khu vực cầu , thuộc tổ dân phố P, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang, D nhìn thấy bà Bùi Thị N, sinh năm 1965, trú tại Tổ dân phố Q, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang điều khiển xe đạp đi cùng chiều với D, trên giỏ xe để 01 (một) túi xách màu ghi xám có quai cầm tay không cài vào xe (trong túi xách bà N có để một tập tiền có giá trị 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) trong 01 (một) ngăn của túi xách và 1.300.000đ (Một triệu ba trăm nghìn đồng) tiền lẻ trong một ngăn khác của túi xách, ngoài ra không để gì khác. Quan sát trên đường không có ai nên D nảy sinh ý định cướp chiếc túi xách trong giỏ xe đạp của bà N. D điều khiển xe mô tô đi đến áp sát về phía bên trái chiếc xe đạp do bà N điều khiển, sau đó nhanh chóng dùng tay phải giật chiếc túi xách và phóng xe đi về hướng Hà Giang, đi được một đoạn cách chỗ cướp giật khoảng hơn 01 km thuộc địa phận tổ dân phố T, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang thấy an toàn và không có ai đuổi theo, nên D lái xe đi chậm lại và dùng tay trái kéo khóa túi xách ra thì thấy bên trong túi xách có một tập tiền Việt Nam gồm nhiều tờ tiền có các mệnh giá 500.000đ, 200.000đ và 100.000đ, D không kiểm đếm tập tiền có giá trị là bao nhiêu mà cất luôn tập tiền vào trong túi bên trái phía ngoài áo khoác màu đỏ đang mặc của D. Do lo sợ bị phát hiện nên sau khi cất tiền vào túi áo, D không kiểm tra các ngăn khác của túi mà vứt luôn chiếc túi xách xuống đường, sau đó điều khiển xe máy quay đầu lại và đi đến ngân hàng Agribank chi nhánh V, huyện B để gửi tiền cho vợ. Khi đến ngân hàng, do thấy đông người giao dịch nên D điều khiển xe quay về khu vực ngã ba Liên ngành, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang để đón lấy hàng cho vợ. Sau khi đón được hàng, D chở hàng về nhà cho vợ và làm việc nhà được khoảng 30 phút, D điều khiển chiếc xe mô tô quay lại ngân hàng Agibank chi nhánh V, huyện B, tỉnh Hà Giang để gửi số tiền 10.100.000đ (mười triệu một trăm ngìn đồng) cho vợ.

Gửi xong tiền vào tài khoản, D điều khiển chiếc xe mô tô trên đi vào vườn cam của gia đình D tại thôn K, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang. Đến nơi, D lấy chiếc cuốc có cán bằng sắt dài 86 cm trong lán rồi đi vào đồi cam, trên đường đi, D nhặt một chiếc túi nilon đã bị rách buộc số tiền đã cướp giật được và chôn xuống đất cách đường đất khoảng 2m50cm. Sau khi chôn số tiền trên xong, D điều khiển xe về nhà ăn cơm trưa và nghỉ ngơi. Đến đầu giờ chiều, thấy sự việc cướp giật túi xách xảy ra tại cầu V được mọi người chia sẻ nhiều trên các trang facebook cá nhân (D không nhớ trang faceboock nào), do lo sợ nên D lấy xe máy BKS 23H9-xxxx đi ra khu vực thị trấn V để nghe ngóng tình hình. Đến khoảng hơn 14 giờ chiều cùng ngày, D được mời lên công an thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang làm việc, quá trình đấu tranh, D đã thừa nhận toàn bộ hành vi cướp giật chiếc túi xách của bà Bùi Thị N xảy ra khoảng 08 giờ 20 phút sáng ngày 30/12/2019 tại khu vực cầu V, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang đồng thời D khai nhận đã cất giấu số tiền lấy được trong túi xách của bà N tại vườn cam thuộc thôn K, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Giang. Chiều tối ngày 30/12/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang đã thu giữ được số tiền mà D cất giấu tại vườn cam, kiểm đếm số tiền có trị giá 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) và truy tìm số tiền 1.300.000đ (một triệu ba trăm nghìn đồng) trên đoạn đường quốc lộ 2 thuộc tổ dân phố T, thị trấn V, huyện B nhưng không tìm thấy.

Đối với bà Bùi Thị N, quá trình làm việc khai nhận: Sáng ngày 30/12/2019, bà đi xe đạp mang theo chiếc túi xách màu ghi xám có quai xách cầm tay, gồm nhiều ngăn có kích thước 30 cm, chất liệu giả da, có quai xách, bên trong để số tiền 51.300.000đ (Năm mươi mốt triệu ba trăm nghìn đồng) gồm một tập tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) có nhiều mệnh giá khác nhau được buộc riêng bằng dây nịt là tiền của gia đình bà mang đến ngân hàng Agribank chi nhánh V, huyện B để gửi vào ngân hàng, còn số tiền lẻ 1.300.000đ (Một triệu ba trăm nghìn đồng) bà mang theo để mua sắm vật dụng gia đình. Khi đi đến đầu cầu V hướng Tuyên Quang - Hà Giang thuộc tổ dân phố P, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang thì bất ngờ bị một thanh niên mặc áo khoác màu đỏ, điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda màu đỏ đen đi áp sát và dùng tay giật chiếc túi xách từ giỏ xe đạp của bà sau đó chạy mất. Thấy vậy, bà lo sợ nên đã quay về nói lại sự việc với chồng mình là ông Hoàng Ngọc Q, sinh năm 1958, trú tại Tổ dân phố Q, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang và cùng ông Quý đi xe moto theo hướng Hà Giang để đuổi theo đối tượng cướp giật. Khi đi đến đoạn đường cách chỗ cướp giật khoảng hơn 01 km (một kilomet) thuộc địa phận tổ dân phố T, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang, bà N phát hiện chiếc túi xách của mình bị cướp giật nằm ở phía bên phải lòng đường quốc lộ 2, bà nhặt chiếc túi lên để kiểm tra thì thấy túi xách đã mở khóa kéo, bên trong không thấy số tiền 51.300.000đ (Năm mươi mốt triệu ba trăm nghìn đồng) nên đã mang túi xách đến công an thị trấn V để trình báo sự việc. Đến 19 giờ 30 phút cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang đã cùng bà Bùi Thị N và đối tượng Trần Trung D, truy tìm số tiền 1.300.000đ (Một triệu ba trăm nghìn đồng) trên đoạn đường quốc lộ 2 thuộc tổ dân phố T, thị trấn V, huyện B nhưng không tìm thấy.

Ngày 31/12/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang đã bàn hành Quyết định trưng cầu giám định số 03/QĐTC, để trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Hà Giang giám định số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã thu giữ được của Trần Trung D.

Tại bản kết luân giám định số 14/KL-PC09 ngày 07/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Giang kết luận: Số tiền Việt Nam gửi giám định đều là tiền thật.

Ngày 06/01/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang ban hành Yêu cầu định giá tài sản số 01/CSĐT đề nghị Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Bắc Quang tiến hành định giá 01 túi xách của bà Bùi Thị N do đối tượng Trần Trung D thực hiện hành vi cướp giật đã vứt đi sau khi lấy được tiền.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐG ngày 20/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bắc Quang kết luận: 01 (một) túi xách màu xám ghi, có quai xách cầm tay, gồm nhiều ngăn, có khích thước 30cm, chất liệu: Giả da (túi xách cũ đã qua sử dụng), xác định giá trị tài sản cũ đã qua sử dụng tại thời điểm mất trộm tháng 12/2019, với giá 250.000 đồng.

Như vậy, tổng giá trị tài sản bà Bùi Thị N bị Trần Trung D cướp giật là 51.550.000đ (Năm mươi mốt triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng).

Với hành vi trên, tại Cáo trạng số: 14/CT-VKSBQ ngày 06/5/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã truy tố Trần Trung D về "Tội cướp giật tài sản" theo quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Trần Trung D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu.

Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang vẫn giữ nguyên quyết định truy tố Trần Trung D về “Tội cướp giật tài sản”.

Về điều luật và hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 171; Điều 38; Điều 50; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 03 năm tù đến 03 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giữ (ngày 30/12/2019). Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo lao động tự do, thu nhập không ổn định.

Về trách nhiệm dân sự: Giai đoạn điều tra, bị hại đã nhận được số tài sản 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng), 01 (một) túi xách trị giá 250.000 đồng và được gia đình bị cáo bồi thường số tiền là 7.000.000đ (Bảy triệu đồng). Đến nay bị hại không đề nghị gì về phần trách nhiệm dân sự nữa, nên đề nghị không đề cập đến.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị:

- Trả lại bị cáo Trần Trung D những vật chứng không liên quan đến hành vi phạm tội gồm: 01 (một) điện thoại di động màu xanh nhạt, bàn phím màu đen có chữ NOKIA (đã cũ, đã qua sử dụng); 01 một sim điện thoại một mặt có chữ VINAPHONE 89840 20001 06447 xxxxx và 01 sim điện thoại một mặt có chữ VIETTEL 8984 04800 88254 xxxx. 01 (một) điện thoại di động màu trắng màn hình cảm ứng, mặt trước có chữ SAMSUNG, mặt sau có dòng chữ IMEI 353416/08/353408/2 (điện thoại cũ, màn hình có nhiều vết nứt); 01 (một) sim điện thoại, một mặt có dòng chữ VIETTEL 8984 04800 00351 xxxxx.

- Tịch thu, tiêu hủy những vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội gồm: 01 (một) áo khoác màu đỏ; 01 (một) cuốc có cán bằng sắt bị han rỉ, có chiều dài 89 cm và 01 (một) túi nilon đã cũ rách.

- Về án phí: đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phần tranh luận bị cáo nhất trí với tội danh, điều luật và mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đã đề nghị trong bản luận tội.

Bị cáo lời nói sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo có cơ hội làm người công dân tốt, có ích cho xã hội và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên của huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Giai đoạn điều tra cũng như tại phiên toà những người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

[1.2] Tại phiên tòa bị hại, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử, xét thấy quá trình điều tra họ đã có lời khai đầy đủ trong hồ sơ và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử, căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[2] Căn cứ định tội, định khung hình phạt:

[2.1] Lời khai nhận tội của Trần Trung D tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, đồng thời phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa như: Biên bản sự việc, biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, biên bản xác minh, giấy nộp tiền ngày 30/12/2020 tại Ủy ban nhân dân thị trấn V và tại thôn K, xã Đ; Yêu cầu định giá tài sản và Bản Kết luận định giá tài sản ngày 06/01/2020; Quyết định trưng cầu giám định và Bản kết luận giám định ngày 07/01/2020; Biên bản khám nghiệm hiện trường và sơ đồ hiện trường; Bản ảnh thu giữ vật chứng ngày 30/12/2019; Biên bản nhận dạng ngày 16/01/2020; Biên bản xác định hiện trường và sơ đồ hiện trường ngày 04/3/2020; Bản ảnh xác định hiện trường; Lời khai của bị hại; Lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, cùng tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định: Ngày 30/12/2019 Trần Trung D đã sử dụng xe mô tô làm phương tiện thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản có trị giá 51.550.000đ (Năm mươi mốt triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) của bà Bùi Thị N, trú tại Tổ dân phố Q, thị trấn V, huyện B, tỉnh Hà Giang. Như vậy, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã truy tố bị cáo theo quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất, mức độ hành hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác là khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ. Đồng thời còn làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây lo lắng cho quần chúng nhân dân trong việc quản lý tài sản. Lợi dụng sự sơ hở của người bị hại, bị cáo đã sử dụng phương tiện là xe mô tô để tiếp cận bà Bùi Thị N, sau đó giật tài sản là chiếc túi xách bên trong đựng tiền tại giỏ xe đạp của bị hại một cách công khai rồi nhanh chóng điều khiển xe mô tô tẩu thoát. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Căn cứ vào việc bị cáo sử dụng phương tiện phạm tội và số tiền bị cáo chiếm đoạt, kết quả giám định và định giá tài sản xác định giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt trong vụ án này là 51.550.000đ (Năm mươi mốt triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xử lý bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân người phạm tội:

Trong vụ án này bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, số tài sản bị cáo chiếm đoạt trong vụ án này đã được thu hồi, trả lại cho bị hại và bản thân bị cáo cũng đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại số tiền là 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng), bên cạnh đó, gia đình bị cáo có người thân là người có công với nước, quá trình điều tra cũng như trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt bị hại đã đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Về nhân thân, bị cáo là người có nhân thân tốt, luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú. Trên cơ sở xem xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy rằng mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội với một thời gian nhất định để giáo dục bị cáo trở thành một người công dân sống có ích cho xã hội và cũng để phòng ngừa chung [4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 171 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tuy nhiên trong vụ án này xét thấy bị cáo là người lao động tự do, thu nhập không ổn định. Vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

5] Về trách nhiệm dân sự: Giai đoạn điều tra bị hại Bùi Thị N đã nhận lại được số tài sản bị mất là 50.000.000 đồng, 01 chiếc túi xách và tiền bồi thường của gia đình bị cáo là 7.000.000 đồng, đến nay bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu nào khác, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Trên cơ sở số vật chứng đã thu giữ trong vụ án, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử lý như sau:

[6.1] Đối với vật chứng là 240 (Hai trăm bốn mươi) tờ tiền Việt Nam có các mệnh giá 500.000đ, 200.000đ, 100.000đ có tổng trị giá 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) và 01 (một) túi xách có màu ghi xám có quai xách cầm tay, gồm nhiều ngăn có kích thước 30 cm, chất liệu giải da là tài sản thu hồi được của bà Bùi Thị N sau khi bị mất; 01 (một) xe máy màu đỏ đen, loại xe ARIBLADE, nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 23H9-xxxx là tài sản thuộc quyền sở hữu của bà Lý Thị T. Xét thấy những tài sản trên không liên quan đến hành vi phạm tội, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang đã ra quyết định xử lý vật chứng và lập biên bản trả lại cho bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ngày 07/3/2020 (bút lục số 88) và ngày 27/3/2020 (bút lục số 94), nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6.2] Đối với 01 (một) điện thoại di động màu xanh nhạt, bàn phím màu đen có chữ NOKIA (đã cũ, đã qua sử dụng); 01 một sim điện thoại một mặt có chữ VINAPHONE 89840 20001 06447 xxxxx và 01 sim điện thoại một mặt có chữ VIETTEL 8984 04800 88254 xxxx. 01 (một) điện thoại di động màu trắng màn hình cảm ứng, mặt trước có chữ SAMSUNG, mặt sau có dòng chữ IMEI 353416/08/353408/2 (điện thoại cũ, màn hình có nhiều vết nứt); 01 (một) sim điện thoại, một mặt có dòng chữ VIETTEL 8984 04800 00351 xxxxx. Hội đồng xét xử, xét thấy đây là vật chứng không liên quan đến hành vi phạm tội, nên cần trả lại cho bị cáo.

[6.3] Đối với 01 (một) cuốc có cán bằng sắt bị han rỉ, có chiều dài 89 cm (đã cũ, đã qua sử dụng); 01 (một) túi nilon đã cũ rách; 01 (một) áo khoác màu đỏ (đã cũ, đã qua sử dụng). Hội đồng xét xử xác định đây là công cụ phạm tội và là vật chứng không có giá trị và không sử dụng được, cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c, d khoản 2 Điều 171; Điều 38, Điều 50; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 và Điều 337 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 3 và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Tuyên bố bị cáo Trần Trung D phạm “Tội cướp giật tài sản”.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Trung D 03 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ (ngày 30/12/2019).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

* Giao cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Quang xử lý những vật chứng sau:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) áo khoác màu đỏ (đã cũ, đã qua sử dụng); 01 (một) cuốc có cán bằng sắt bị han rỉ, có chiều dài 89 cm (đã cũ, đã qua sử dụng);

01 (một) túi nilon đã cũ rách.

- Trả lại cho bị cáo Trần Trung D: 01 (một) điện thoại di động màu xanh nhạt, bàn phím màu đen có chữ NOKIA (đã cũ, đã qua sử dụng); 01 một sim điện thoại một mặt có chữ VINAPHONE 89840 20001 06447 xxxxx và 01 sim điện thoại một mặt có chữ VIETTEL 8984 04800 88254 xxxx. 01 (một) điện thoại di động màu trắng màn hình cảm ứng, mặt trước có chữ SAMSUNG, mặt sau có dòng chữ IMEI 353416/08/353408/2 (điện thoại cũ, màn hình có nhiều vết nứt); 01 (một) sim điện thoại, một mặt có dòng chữ VIETTEL 8984 04800 00351 xxxxx.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng giữa cơ quan Công an huyện Bắc Quang và Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Quang ngày 08/5/2020).

4. Về án phí: Bị cáo Trần Trung D phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được bản án sao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 16/2020/HS-ST

Số hiệu:16/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;