TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 13/2022/HS-ST NGÀY 24/05/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 5 năm 2022 tại điểm cầu trung tâm Hội trường xét xử II Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh kết nối với điểm cầu thành phần tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2022/TLST-HS ngày 20 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2022/QĐXXST - HS ngày 10 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Như C – Sinh ngày 22/7/1990 tại tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Khối A, phường Lê Lợi, TP Vinh, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 11/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông Nguyễn Như Ng – Sinh năm 1956 và bà Ngô Thị B – Sinh năm 1960; Có vợ là Chu Thị H –Sinh năm 1992 và 01 con (sinh năm 2015); Anh chị em ruột có 05 người, bị cáo là con thứ 5;
Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân:
- Ngày 24/9/2008 bị TAND thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 12 tháng về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Bản án số 421/2008/HSST.
- Ngày 01/7/2010 bị TAND thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Bản án số 268/2010/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù vào tháng 4/2011.
- Ngày 20/02/2012, bị TAND thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 30/2012/HSST. Chấp hành xong hình phạt ngày 30/7/2013.
Bị cáo bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh từ ngày 19/12/2021 đến nay. “Có mặt”
- Người bị hại: Nguyễn Thị H – Sinh năm 1993; Nơi cư trú: Thôn An T, xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; “Vắng mặt”
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Đồng Minh Nh – Sinh năm 1977; Nơi cư trú: Số D, đường Nguyễn Thị Minh Khai, phường Lê Mao, Tp Vinh, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Buôn bán điện thoại; “Vắng mặt”.
2. Ngô Thị B – Sinh năm 1960; Nơi cư trú: Số A, ngõ 54, đường H, khối A, phường Lê Lợi, Tp Vinh, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; “Có mặt”
3. Nguyễn Như Q – Sinh năm 1986; Nơi cư trú: Số A, ngõ 54, đường H, khối A, phường Lê Lợi, Tp Vinh, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lái xe; “Có mặt”
- Người làm chứng:
1. Lê Đại D – Sinh năm 1989; Nơi cư trú: Thôn Thành L, xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. “Vắng mặt”
2. Lê Trần L – Sinh năm 1979; Nơi cư trú: Thôn M, xã X, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. “Vắng mặt”
3. Hồ Ngọc Ph – Sinh năm 1980; Nơi cư trú: Thôn M, xã C, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. “Vắng mặt”
- Người tham gia tố tụng khác: Cán bộ, chiến sỹ tại điểm cầu thành phần hỗ trợ phiên tòa: Đồng chí Đại úy Nguyễn Văn T – Tổ trưởng tổ dẫn giải - Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh “Có mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sau khi có ý định cướp giật tài sản của người đi đường phục vụ việc tiêu xài cá nhân, ngày 16/12/2021, bị cáo Nguyễn Như C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave màu trắng, mang biển kiểm soát 38B3-017.63 (xe của anh trai bị cáo tên là Nguyễn Như Q) đi đến địa bàn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh để thực hiện hành vi. Khi đến thị trấn Xuân An, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, bị cáo dùng chiếc cờ lê có sẵn trên xe tháo biển kiểm soát ra kẹp vào giá giữa của xe. Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo tiếp tục điều khiển xe đi theo đường Quốc lộ 8B đến khu vực gần cây xăng Sơn Chiên thuộc địa bàn thôn An Tiên, xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh phát hiện người bị hại điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Air Blade mang biển kiểm soát 37N8-2871 đang đổ xăng, trong túi quần sau của người bị hại có để 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s plus màu vàng. Bị cáo dừng xe bên đường đợi người bị hại đổ xăng xong thì điều khiển xe mô tô bám theo nhằm mục đích cướp giật điện thoại của người bị hại. Khi người bị hại điều khiển xe mô tô về đến trước cổng nhà đang dừng xe để mở cổng thì bị cáo liền điều khiển xe mô tô lại gần dùng tay giật lấy điện thoại của người bị hại rồi phóng xe bỏ chạy. Người bị hại điều khiển xe mô tô đuổi theo bị cáo nhưng không kịp. Sau đó bị cáo điều khiển xe mô tô đi đến thị trấn Xuân An lắp biển kiểm soát xe vào và đưa chiếc điện thoại vừa cướp giật được đến cửa hàng sửa chữa điện thoại không rõ tên, địa chỉ trên đường Bạch Liêu, Tp Vinh, tỉnh Nghệ An để thuê mở khóa Icloud. Mở khóa xong, bị cáo đưa điện thoại đến cửa hàng điện thoại Quang Nhật tại số 107D đường Nguyễn Thị Minh Khai, phường Lê Mao, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An bán cho anh Đồng Minh Nh với giá 1.200.000 đồng. Số tiền bán điện thoại, bị cáo tiêu xài cá nhân hết 800.000 đồng, còn 400.000 đồng khi bị bắt bị cáo đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra.
Vật chứng thu giữ và trả lại cho chủ sở hữu gồm: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave do hãng Honda sản xuất, sơn màu trắng, BKS 37B3-017.63, số máy JA39E-1299782 số khung: RLHJA3911KY429473; 01 chiếc cờ lê bằng kim loại màu trắng một đầu 8 một đầu 10; 01 chiếc điện thoại Iphone 6 plus màu vàng ko có sim, số Imei 353289077735753; Còn lại số tiền 400.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam hiện đang được tạm giữ tại Chi cục THA huyện Nghi Xuân.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 26/2021/HĐĐGTS ngày 31/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Nghi Xuân kết luận: Chiếc điện thoại là vật chứng của vụ án có trị giá còn lại là 3.128.900 đồng.
Trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, bị cáo tác động gia đình bồi thường cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Đồng Minh Nh 1.200.000 đồng. Nay bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì thêm.
Cáo trạng số 13/CT-VKSNX, ngày 18 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” điểm d khoản 2 Điều 171 BLHS.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171, Điều 38, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Như C 36 – 42 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2021. Ngoài ra còn đề xuất xử lý vật chứng và án phí.
Tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đồng ý với luận tội của Kiểm sát viên, không tranh luận và chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tung:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Nghi Xuân; Kiểm sát viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan, những người tiến hành tố tụng. Nên hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
Tại phiên tòa vắng mặt người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Đồng Minh Nh và người làm chứng trong vụ án, xét việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử bị cáo nên không cần phải hoãn phiên tòa.
[2]. Về nội dung vụ án:
[2.1]. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, phù hợp với kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, HĐXX có đủ kết luận: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 16/12/2021 bị cáo đã điều khiển xe mô tô để cướp giật tài sản là tình tiết “dùng thủ đoạn nguy hiểm” một chiếc điện thoại di động trị giá 3.128.900 đồng của bị hại đem bán để lấy số tiền 1.200.000 đồng tiêu xài cá nhân. Hành vi của bị cáo dùng mô tô, xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản là tình tiết “dùng thủ đoạn nguy hiểm” Vì vậy, Cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.
Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, táo bạo, liều lĩnh và xem thường pháp luật; đã lợi dụng sự sơ hở của người khác để chiếm đoạt trái phép tài sản một cách công khai ngay trên đường. Hành vi không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân mà còn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương làm quần chúng nhân dân hoang mang. Bị cáo có nhân thân xấu, vì vậy, HĐXX cần xử phạt nghiêm để giáo dục bị cáo cũng như răn đe và phòng ngừa chung.
[2.2]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt, tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, HĐXX cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là phù hợp.
[2.3] Trên cơ sở xem xét, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời gian như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhằm giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
[2.4]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do thu nhập không ổn định nên không phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[2.5]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu HĐXX miễn xét.
[2.6]. Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Số tiền bán điện thoại cho anh Đồng Minh Nh bị cáo được lợi 1.200.000 đồng, nay bị cáo đã trả lại đầy đủ nên HĐXX chỉ tịch thu vật chứng số tiền 400.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước là phù hợp.
[2.7]. Liên quan trong vụ án:
Trong vụ án bị cáo sử dụng chiếc xe mô tô thuộc sở hữu của anh Nguyễn Như Q (anh trai của bị cáo) làm phương tiện phạm tội. Tuy nhiên, anh Q không biết việc bị cáo sử dụng chiếc xe mô tô của mình làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội nên HĐXX không xem xét xử lý đối với anh Nguyễn Như Q là phù hợp.
Ngoài ra trong vụ án còn có Đồng Minh Nh là người đã mua chiếc điện thoại do bị cáo cướp giật được nhưng Đồng Minh Nh không biết chiếc điện thoại đó là do bị cáo phạm tội mà có nên HĐXX không xem xét xử lý đối với anh Đồng Minh Nh là phù hợp.
[3]. Xét ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về điều luật áp dụng là có căn cứ phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[4]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171, Điều 38, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự;
Khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 106; Điều 135, khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 292, khoản 1 Điều 293, Điều 331, 333, 336, 337 Bộ luật tố tụng hình sự;
Điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 6, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, Nghị quyết Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
[1]. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Như C phạm tội “Cướp giật tài sản”.
[2]. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Như C 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
[3]. Về xử lý vật chứng: Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
[4]. Buộc bị cáo Nguyễn Như C phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[5]. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật
Bản án về tội cướp giật tài sản số 13/2022/HS-ST
Số hiệu: | 13/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nghi Xuân - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/05/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về