TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 125/2024/HS-ST NGÀY 18/09/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 9 năm 2024, tại Toà án nhân dân Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 116/2024/TLST-HS ngày 20 tháng 8 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/2024/QĐXXST– HS ngày 04 tháng 9 năm 2024;
Nguyễn Văn T – Tên gọi khác: Không; sinh ngày 01 tháng 8 năm 1988 tại thành phố Đà Nẵng; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ C, phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn C và bà Ngô Thị L đã chết.
Tiền án, tiền sự: Chưa;
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 14/5/2024, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an quận T tại phiên toà.
- Bị hại:
+ Chị Nguyễn Thị M T1: Tổ D phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng.
Vắng mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm: 1982; Địa chỉ: K C, phường T, quận H, T .
+ Bà Nguyễn Thị Hồng V, sinh năm: 1991; Địa chỉ: Tổ A, xã H, huyện H, T .
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 18/8/2023, Nguyễn Văn T1 khiển xe môtô biển kiểm soát 43K3-xxxx chở Nguyễn Thị Mỹ T2 là bạn quen qua mạng xã hội, đến quán “Quảng Ngãi" ở đường P, quận N, thành phố Đ ngồi nhậu. Khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, T3 thanh toán tiền nhậu với số tiền khoảng 400.000 đồng (Btrăm nghìn đồng) rồi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 43K3-xxxx chở T1ra về. Trên đường đi, T1thấy Tkhông điều khiển xe đi về hướng nhà mình mà đi lòng vòng trên đường. T1cho rằng Tkhông muốn chở mình về nhà mà chở đến nhà nghỉ nên khi đi trên đường N cầu T xe để T1bắt xe Grap về. Lúc này T4 nói gì, tiếp tục chở T1đi tiếp đến ngã tư K - K H thuộc địa bàn phường T, quận T, Đà Nẵng thì T5 máy, dừng xe lại, cả hai xuống xe đứng nói chuyện. Tại đây, T6 cầu T1phải trả lại tiền nhậu cho TT1đồng ý và đề nghị ngày mai Tđến nhà T1lấy vì không mang theo tiền mặt. Tuy nhiên, T4 đồng ý mà yêu cầu T1phải trả tiền mặt ngay hoặc chuyển khoản. Cả hai đứng tranh cãi được một lúc thì bất ngờ Tdùng tay phải giật chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Realme Poco X3, màu xanh trên tay T1rồi Tlên xe môtô biển số 43K3-xxxx nổ máy bỏ đi. Điện thoại chiếm đoạt được, T7 đến tiệm mua bán điện thoại “Hạnh Vân” ở địa chỉ số D đường T, phường X, quận T, thành phố Đ chị Nguyễn Thị Hồng V(Sinh năm: 1991; trú: Tổ 01 thôn D, xã H, huyện H, thành phố Đ chủ, bán được số tiền là 1.400.000 đồng (Một triệu bốn trăm nghìn đồng) và đã tiêu xài cá nhân hết.
Quá trình điều tra đã tiến hành dẫn giải Nguyễn Văn T8 tiệm mua bán điện thoại “Hạnh Vân” ở địa chỉ số D đường T, thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, chị Nguyễn Thị Hồng V1 nhận là không nhớ rõ có mua điện thoại nhãn hiệu Realme Poco X3 từ Nguyễn Văn T9 không và đồng thời không có điện thoại Realme Poco X3 của Nguyễn Thị M T1nên không thu giữ được tang vật.
Tại Bản kết luận định giá tài sản ngày 12/4/2024 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận T: 01 điện thoại di động Realme Poco X3 màu xanh, Ram 6GB, Rom 12GB, màn hình 6,66 inch có giá trị 2.150.000 đồng.
Vật chứng tạm giữ: Không.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Nguyễn Thị M T1đã nhận số tiền 5.700.000 đồng (Năm triệu bảy trăm nghìn đồng) từ gia đình bị cáo T10 không có yêu cầu bồi thường gì thêm.
Tại Cáo trạng số 107/CT-VKS ngày 19 tháng 8 năm 2024 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Nguyễn Văn T về tội:
“Cướp giật tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố nhà nước giữ nguyên quan điểm đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất vụ án, nhân thân, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Cướp giật tài sản” và áp dụng: khoản 1 Điều 171, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T11 án từ 09 tháng đến 12 tháng.
Bị cáo Nguyễn Văn T12 nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố là đúng. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận T15, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đều đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Trong quá trình điều tra và truy tố, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 23 giờ ngày 18/8/2023, tại ngã tư K - K Hthuộc địa bàn phường T, quận T, thành phố Đà NẵngNguyễn V có hành vi cướp giật 01 điện thoại Realme Poco X3 màu xanh, có giá trị 2.150.000 đồng của chị Nguyễn Thị M T1để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân.
Hành vi trên của Nguyễn Văn T đã phạm vào tội "“Cướp giật tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự. Như vậy Cáo trạng số 107/CT-VKS ngày 19 tháng 8 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo thì thấy:
Bị cáo Nguyễn Văn T là thanh niên có tuổi đời còn trẻ, có đầy đủ năng lực điều khiển hành vi nhưng không biết kìm chế cảm xúc nóng giận của mình mà đã cố ý trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác để nhanh chóng có được thu nhập bất chính. Hành vi cướp giật của bị cáo thể hiện sự liều lĩnh, xem thường pháp luật, gây tâm lý hoang mang cho quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự địa phương. Do vậy, cần phải xử lý bị cáo hình phạt tương xứng với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự nên Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc khi lượng hình đối với bị cáo.
[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:
Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
-Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải và đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại nên được hưởng các tình tiết quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê về việc áp dụng hình phạt là tương xứng với thái độ, hành vi, nhân thân của bị cáo nên cần chấp nhận.
[6] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[7] Đối với xe mô tô biển kiểm soát 43K3 -xxx, qua xác minh xác định xe mô tô trên do ông Nguyễn Văn C1 cha của bị cáo Nguyễn Văn T13 tên chủ sở hữu. Vào năm 2011, ông C2 nên xe mô tô này được gia đình giao lại cho con ruột Nguyễn Văn Đ1 quyền sử dụng. Vào ngày 18/8/2023, T sử dụng xe làm phương tiện đi lại cá nhân. Gia đình không biết Tsử dụng xe mô tô này để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận T xem xét xử lý đối với Nguyễn Văn Đ2 xe mô tô biển kiểm soát 43K3 -xxx là có cơ sở.
[8] Đối với chị Nguyễn Thị Hồng V1 nhận trong quá trình kinh doanh không nhớ rõ có mua điện thoại Realme Poco X3 từ Nguyễn Văn T14 khoảng tháng 10/2023 hay không, đồng thời không có chứng cứ chứng minh Nguyễn Thị Hồng V2 mua điện thoại Realme Poco X3 từ N Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận T có cơ sở xử lý.
[9] Về án phí: Bị Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
QUYẾT ĐỊNH
1.Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Cướp giật tài sản”.
- Căn cứ khoản 1 Điều 171, điểm b, s khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14 tháng 5 năm 2024.
2. Về án phí: Căn cứ Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về việc “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án” của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
3. Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết trích sao bản án.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 125/2024/HS-ST
Số hiệu: | 125/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về