Bản án về tội cướp giật tài sản số 12/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NẬM PỒ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 12/2021/HS-ST NGÀY 09/12/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên; Mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 05/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2021 đối với:

Bị cáo Giàng A T, sinh năm 2004 (Theo bản kết luận pháp y về độ tuổi số 06/21/GĐT ngày 04/02/2021 của Viện pháp y Quốc gia); nơi sinh tại huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Bản H, xã NK, huyện MN, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm nương; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Giàng A Dơ, sinh năm1963 và con bà: Tráng Thị Cáng, sinh năm1965; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không;

Bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 09/01/2021, đến tháng 4 năm 2021 thì bỏ trốn khỏi địa phương. Bị bắt theo quyết định truy nã và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/07/2021 tại nhà tạm giữ Công an huyện Nậm Pồ cho tới nay, có mặt tại phiên tòa.

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo Giàng A T:

Ông Giàng A D, sinh năm 1963 (là bố đẻ của bị cáo Giàng A T). Trú tại: Bản H, xã NK, huyện MN, tỉnh Điện Biên, có mặt.

* Bị hại: Vàng A D, sinh ngày 23/9/2008, địa chỉ: Bản Mo C, xã Phìn H, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Người đại diện theo pháp luật cho bị hại Vàng A D:

Ông Vàng A T, sinh năm 1988. Địa chỉ: Bản Mo C, xã P, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Bị hại: Liều A T, sinh ngày 2006, địa chỉ: Bản Đề P, xã P, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người đại diện theo pháp luật cho bị hại Liều A T:

Ông Liều A L, sinh năm 1969. Địa chỉ: Bản Đề P, xã Phìn H, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Lầu A L, sinh năm: 1996. Địa chỉ: Bản Hô H, xã Chà T, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

Ông Chớ A P, sinh năm: 1965. Địa chỉ: Bản T, xã Quảng L, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên, (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo Giàng A T:

- Ông Lê Đình Thu là trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

*Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại:

- Ông Phùng Việt Hoa là Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Điện Biên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Vàng A D, (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Ông Hoàng Tiến Ngọ là Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Điện Biên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Liều A T, (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 04/01/2021 Chớ A S đi xe mô tô biển kiểm soát 27S1 - 086.94 đến nhà Giàng A T ở bản H, xã NK, huyện MN, tỉnh Điện Biên rủ T cùng đi xuống xã Chà Cang, huyện Nậm Pồ chơi. Trên đường đi T và Sang bàn bạc nếu gặp ai đi đường có điện thoại thì giật để bán lấy tiền tiêu sài, nhưng trên đường đi đến xã Chà Cang cả hai không gặp ai nên không thực hiện được hành vi chiếm đoạt tài sản. Sau đó cả hai cùng đến nhà Lầu A S (sinh năm 1996) ở bản Hô H, xã Chà T, huyện Nậm Pồ để nghỉ ngơi. Khoảng 08 giờ ngày 05/01/2021 khi T và S đang ở nhà Lầu A S thì có Vàng A S (sinh năm 2006) ở cùng bản với S đến chơi, sau đó cả nhóm tổ chức ăn uống ở nhà Sá. Sau khi ăn cơm xong thì Lầu A Sá nói với Chớ A S, Giàng A T và Vàng A S: “Lát đi tán gái, gặp chỗ nào có người dùng điện thoại thì cướp”, rồi cả nhóm thống nhất với nhau gặp chỗ nào có người dùng điện thoại thì cướp giật để bán lấy tiền tiêu sài.

Khoảng 13 giờ cùng ngày, Lầu A S đi xe mô tô biển kiểm soát 15B1 – 213.40 chở Vàng A S, còn Chớ A S chở Giàng A T cùng đi đến xã Chà Cang, huyện Nậm Pồ chơi, tại Chà Cang. Khoảng 17 giờ cùng ngày, cả nhóm cùng đi đến km45, quốc lộ 4H thuộc xã Phìn Hồ, huyện Nậm Pồ thì nghỉ ăn cơm, vừa ăn cơm vừa thống nhất sẽ đi về hướng xã Si Pa Phìn để cướp giật điện thoại trên đường đi. Khoảng 19 giờ cùng ngày, cả nhóm đi đến khu vực gần Trường phổ thông dân tộc bán trú Trung học cơ sở Phìn Hồ thuộc bản Đề Tinh 2, xã Phìn Hồ, huyện Nậm Pồ thì thấy một nhóm học sinh đang ngồi bên lề đường sử dụng điện thoại di động, cả nhóm đi qua chỗ có học sinh khoảng 100 mét rồi dừng lại bàn bạc với nhau là quay lại để cướp giật điện thoại của nhóm học sinh này. Sau đó cả nhóm đi qua nhóm học sinh khoảng 20 mét rồi dừng xe và cùng nhau đi đến chỗ nhóm học sinh. Lầu A Sá hỏi một học sinh là trường này có gái không thì học sinh đó đáp lại là có. Lầu A S tiếp cận sát cháu Vàng A D sinh ngày 23/9/2008 rồi dùng tay phải giật chiếc điện thoại màn hình cảm ứng nhãn hiệu Meizu màu bạc trị giá 530.000 đồng của cháu D. Cùng lúc đó Giàng A T cũng giật một chiếc điện thoại màn hình cảm ứng nhãn hiệu Vsmart Bee màu xanh trị giá 667.000 đồng của cháu Liều A T sinh ngày 16/12/2006. Sau đó nhóm học sinh hô hét lên thì cả nhóm S, S, T và S cùng bỏ chạy về chỗ để xe, S chở S, còn S chở T đến nhà anh họ của S là Vàng A C ở bản Nậm Chim 1, xã Si Pa Phìn, huyện Nậm Pồ để ngủ. Khoảng 10 giờ ngày 07/01/2021 S và T mang chiếc điện thoại mà T cướp giật được đi bán nhưng không bán được. Sau đó cả nhóm cầm theo 02 chiếc điện thoại cướp giật được đi đến bản Van Hồ, xã Si Pa Phìn, huyện Nậm Pồ chơi. Khi đến khu vực ngã ba bản Van Hồ cả nhóm dừng xe để nghỉ thì có tổ công tác đến kiểm tra, Sá ném chiếc điện thoại mà S cướp giật được xuống tà ly âm. Tổ công tác yêu cầu cả nhóm có đồ vật, tài liệu gì vi phạm pháp luật thì tự giác giao nộp. Giàng A T đã giao nộp chiếc điện thoại mà T cướp giật được. Còn Lầu A S đi đến chỗ tà ly âm nhặt chiếc điện thoại vừa ném xuống giao nộp. Tổ công tác đã lập biên bản vụ việc, tạm giữ vật chứng và đưa Lầu A S, Chớ A S, Giàng A T và Vàng A S về trụ sở để làm việc.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 13/KL-HĐĐGTS ngày 29/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Nậm Pồ kết luận tổng trị giá 02 chiếc điện thoại tại thời điểm bị xâm phạm là 1.297.000 đồng.

Bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số 06 ngày 04/02/2021 của Viện Pháp y Quốc gia kết luận tại thời điểm giám định ngày 21/02/2021, kết luận Giàng A T có độ tuổi từ 16 năm 06 tháng đến 17 năm.

Tại thời điểm bị cướp giật tài sản bị hại Vàng A D được 12 tuổi 03 tháng 13 ngày, bị hại Liều A T được 14 tuổi 20 ngày.

Bản cáo trạng số: 40/CT-VKSNP ngày 04/10/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị can Giàng A T về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Giàng A T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, sau khi nêu lên những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 90; khoản 1, 6 Điều 91; Điều 98 và khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Giàng A T mức án từ 18 đến 24 tháng tù.

Miễn án phí Hình sự sơ thẩm và miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Ý kiến của ông Lê Đình Thu bào chữa cho bị cáo Giàng A T, thống nhất về việc truy tố và xét xử bị cáo về tội danh cũng như khung hình phạt như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự; Ông Lê Đình Thu cho rằng tại phiên tòa Giàng A T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khi phạm tội Giàng A T dưới 17 tuổi và đại diện hợp pháp của bị hại Vàng A Dương có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tình tiết bị cáo đã “đầu thú”; áp dụng điểm g khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58, Điều 90, khoản 1, 6 Điều 91, Điều 98 và khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự, áp dụng mức hình phạt thấp nhất theo đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát, không áp dụng hình phạt bổ sung, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho Giàng A T.

Bị cáo T không có ý kiến gì bổ sung đối với nội dung lời bào chữa của người bào chữa và xin Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi phạm tội của bị cáo: Tại Cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo Giàng A T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, qua lời khai nhận tội của bị cáo, đối chiếu với lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Giàng A T đã hành vi phạm tội “Cướp giật tài sản” cùng với Lầu A Sá, Chớ A Sang, Vàng A Sịa. Đối với Lầu A Sá, Chớ A Sang, Vàng A Sịa đã bị Tòa án nhân dân huyện Nậm Pồ xét xử về cùng tội tại bản án số 37/2021/HSST ngày 08/9/2021. Bị cáo Giàng A T đã có hành vi bàn bạc thống nhất ý chí hành động và cướp giật nhằm chiếm đoạt tài sản là 02 chiếc điện thoại di động của cháu Vàng A Dương, sinh ngày 23/9/2008 và cháu Liều A Tùng, sinh ngày 16/12/2006. Tại thời điểm bị cướp giật tài sản bị hại Vàng A Dương được 12 tuổi 03 tháng 13 ngày, bị hại Liều A Tùng được 14 tuổi 20 ngày. Vì vậy bị cáo Giàng A T bị truy tố và xét xử về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự là có cơ sở.

[2] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo Giàng A T là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo T đã cùng 03 đối tượng là Lầu A Sá, Chớ A Sang và Vàng A Sịa thực hiện hành vi cướp giật tài sản của các bị hại Vàng A D và Liều A Tu là học sinh Trường trung học cơ sở Phìn Hồ, huyện Nậm Pồ. Cháu Vàng A D và cháu Liều A Tùng đều đang dưới 16 tuổi. Xét thấy trong vụ án không có sự phân công vai trò cụ thể nên chỉ đồng phạm mang tính giản đơn; trong đó Lầu A S là người khởi xướng, có vai trò chính trong vụ án; Giàng A T chỉ là đồng phạm với vai trò giúp sức. Sau khi được cho tại ngoại Giàng A T đã bỏ trốn khỏi địa phương, đến ngày 07/7/2021 bị cáo T đã ra đầu thú tại Công an xã NK, huyện MN, tỉnh Điện Biên. Vì vậy hành vi phạm tội của bị cáo Giàng A T cần phải bị xử phạt nghiêm minh trước pháp luật với mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cần thiết phải cách ly ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tệ nạn tại địa phương.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo T có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Giàng A T.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 171 Bộ luật hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tuy nhiên, bị cáo T phạm tội khi đang ở tuổi vị thành niên nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại Vàng A D là ông Vàng A T vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin vắng mặt và xác nhận đã nhận đủ số tiền 1.500.000 đồng do gia đình Vàng A Sịa hỗ trợ và 3.000.000 đồng do gia đình Chớ A S hỗ trợ nên không có yêu cầu gì khác. Đại diện hợp pháp cho cháu Liều A T có đơn xin xử vắng mặt và không có yêu cầu gì khác. Tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi và giao trả lại cho bị hại; do vậy HĐXX không cần đề cập xem xét phần trách nhiệm dân sự đối với bị cáo T.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Chớ A P, Lầu A L có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, đã nhận lại tài sản là xe mô tô của mình, không có yêu cầu gì khác.

[7] Xét đề nghị và luận tội của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Xét đề nghị của người bào chữa cho bị cáo Giàng A T cho rằng hành vi phạm tội của bị phạm tội lần đầu, tại phiên tòa bị cáo T sau khi bỏ đi khỏi địa phương đã ra đầu thú và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đề nghị HĐXX cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho Giàng A T theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và áp dụng quy định của pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội tại Điều 90; khoản 1, 6 Điều 91; Điều 98 và khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự; áp dụng mức hình phạt thấp nhất theo đề nghị của Viện kiểm sát. Cần xem xét áp dụng mức hình phạt tương với hành vi phạm tội của bị cáo trong vụ án.

[9] Vật chứng và các vấn đề khác:

Về vật chứng vụ án: Đối với 01 chiếc xe mô tô hiệu HonDa Wave RSX màu đen đỏ, biển kiểm soát 15B1-213.40 đã qua sử dụng thu giữ của Lầu A S và 01 chiếc xe mô tô hiệu HonDa Wave RSX màu đen đỏ, biển kiểm soát 27S1- 086.94 đã qua sử dụng thu giữ của Chớ A S. Qua xác minh, đã làm rõ chủ sở hữu hợp pháp chiếc xe do Lầu A S dùng làm phương tiện phạm tội là của ông Lầu A L anh trai của S, ông L không biết việc Sá dùng xe của mình làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội. Chiếc xe do Chớ A Sang mượn của ông Chớ A P, dùng làm phương tiện phạm tội. Ngày 18/4/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công huyện Nậm Pồ đã ra quyết định xử lý vật chứng và trả lại 02 chiếc xe cho ông Lầu A L và ông Chớ A P. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận biên bản về việc trả lại tài sản của Công an huyện Nậm Pồ cho Lầu A L và ông Chớ A P vào ngày 18/4/2021.

Đối với Lầu A L và Chớ A P cho các bị cáo Lầu A S, Chớ A S mượn xe mô tô, do L và P đều không biết việc S và S sử dụng xe đi cướp giật tài sản nên không đặt vấn đề xử lý đối với L và P.

Đối với Vàng A C là người cho nhóm của S ngủ nhờ sau khi cướp giật tài sản, qua xác minh ông C khai nhận không biết việc nhóm S đi cướp giật tài sản nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Đối với Lầu A S, Chớ A S và Vàng A S đã bị Tòa án nhân dân huyện Nậm Pồ xét xử về cùng tội trong một vụ án khác.

[10] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[11] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14: HĐXX xét thấy gia đình Giàng A T là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ nên được miễn án phí Hình sự sơ thẩm.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp, người bào chữa, bị hại và đại diện của bị hại có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định tại Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Vì các lẽ trên,            

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Giàng A T phạm tội: Cướp giật tài sản.

2. Hình phạt:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 90; khoản 1, 6 Điều 91, Điều 98; khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Giàng A T 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt: 07/07/2021.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Giàng A T được miễn án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp, người bào chữa, bị hại và đại diện của bị hại có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (09/12/2021). Nếu những người này vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 12/2021/HS-ST

Số hiệu:12/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;