Bản án về tội cướp giật tài sản số 106/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 106/2023/HS-ST NGÀY 19/05/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

 Ngày 19 tháng 5 năm 2023, tại điểm cầu Trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh và điểm cầu thành phần là Nhà tạm giữ -Công an quận Bình Tân xét xử sơ thẩm công khai bằng hình thức trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 86/2023/TLST-HS, ngày 30 tháng 3 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 147/2023/QĐXXST-HS, ngày 05 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo: Phạm Nhật T (tên gọi khác: Tý), sinh năm 1990, tại tỉnh Khánh Hòa. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn N T, xã B L, huyện D K, tỉnh K H; nơi ở: Nhà số A, đường T L 10, Khu phố 7, phường T T, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Trung T (chết) và bà Nguyễn Thị S; chưa có vợ con; tiền án: Ngày 23/5/2016, bị Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xử phúc thẩm phạt 07 năm tù về “Tội mua bán trái phép chất ma túy” (phạm tội rất nghiêm trọng, đã chấp hành xong hình phạt chính ngày 14/5/2022 và quyết định khác ngày 08/8/2016, án tích chưa được xóa) tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 21/9/2007, bị Công an thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Gây rối trật tự công cộng” với số tiền 1.000.000 đồng (hết thời hiệu thi hành quyết định do chưa tống đạt quyết định cho T nên được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính); bị bắt tạm giữ ngày 03-9-2022 (tính theo Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân lập lúc 19 giờ 30 phút ngày 03-9-2022 và kết thúc lúc 20 giờ cùng ngày), tạm giam ngày 10-9-2022 “có mặt”.

*Bị hại: Em Quang Ngọc Quỳnh N, sinh ngày 02/11/2011; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Nhà số A, Đường Số 6, phường B H H A, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh (từ chối người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp) “vắng mặt”.

Người đại diện hợp pháp cho em N: Chị Nguyễn Thị Ngọc M, sinh năm 1986. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Nhà số A, Đường Số 6, phường B H H A, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh (mẹ ruột em N, từ chối người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho em N) “vắng mặt”.

*Các người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Phạm Thị Nhật Th, sinh năm 1984. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Nhà số B, đường T L 10, Khu phố 7, phường T T, Thành phố Hồ Chí Minh “có mặt”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 18 giờ 50 phút ngày 03/09/2022, Phạm Nhật T điều khiển xe gắn máy biển số 85NA-45xx chạy đi tìm người có tài sản để giật lấy bán kiếm tiền tiêu xài. Khi đến góc Đường Số 24A và 25A, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân nhìn thấy em Quang Ngọc Phương Tr đang điều khiển xe môtô chở em Quang Ngọc Quỳnh N có cầm chiếc điện thoại di động hiệu Iphone XS 64Gb màu vàng nên chờ cho xe các em chạy đến trước nhà số 2, Đường Số 25A, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân thì: T cho xe chạy lên áp sát bên trái em N và dùng tay phải giật lấy được chiếc điện thoại di động của em N rồi định tăng ga xe bỏ chạy tẩu thoát nhưng do bị em N nắm giành lại nên làm T bị té ngã. Sau đó, T dựng xe lên định bỏ chạy thì liền bị người dân xung quanh nắm xe kéo lại; lúc này, T ném chiếc điện thoại di động của em N xuống đường và bỏ xe chạy bộ, em N tri hô lên nên Tổ hình sự đặc nhiệm-Công an quận Bình Tân đang đi tuần tra gần đó nghe, thấy đuổi theo khoảng 400 mét thì bắt giữ được T cùng vật chứng giao cho Công an phường Bình Trị Đông B xử lý người có hành vi phạm tội quả tang rồi sau đó chuyển cho Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền. Tại đây, T đã khai nhận toàn bộ hành vi như vừa mới nêu.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phạm Nhật T đã khai nhận: Trong lúc điều khiển xe gắn máy biển số 85NA-45xx chạy trên đường tìm người có tài sản để giật lấy bán kiếm tiền tiêu xài thì nhìn thấy em Quang Ngọc Phương Trinh đang điều khiển xe môtô chở em Quang Ngọc Quỳnh N có cầm chiếc điện thoại di động hiệu Iphone XS 64Gb màu vàng nên bị cáo chờ cho xe các em chạy qua khỏi góc đường này. Khi đó, bị cáo cho xe chạy lên áp sát bên trái em N và dùng tay phải giật lấy được chiếc điện thoại di động của em N rồi tăng ga xe chạy tẩu thoát nhưng sau đó bị bắt giữ cùng với vật chứng giao cho Công an giải quyết nên nay bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Đồng thời, không có ý kiến gì về kết luận định giá tài sản của em N và trách nhiệm dân sự; riêng chiếc xe gắn máy biển số 85NA-45xx, yêu cầu trả lại cho chị bị cáo tên là Phạm Thị Nhật Thảo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phạm Thị Nhật Thảo, khai: Chiếc xe gắn máy biển số 85NA-45xx do anh Lê Công Thuận đứng tên sở hữu và đã bán lại cho chị có kèm theo giấy đăng ký xe, tuy việc mua bán có làm giấy tay nhưng đã bị mất và chưa sang tên. Bị cáo là em ruột của chị mượn xe đi uống cà phê, chị không biết bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội nên yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét trả chiếc xe này lại cho chị để đưa, đón con đi học.

Tại Cáo trạng số: 97/CT-VKS, ngày 24 tháng 3 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Phạm Nhật T ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về “Tội cướp giật tài sản”, theo các điểm d, g, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận có ý kiến: Bị cáo Phạm Nhật T đã có hành vi nhanh chóng chiếm đoạt trái phép tài sản của em Quang Ngọc Quỳnh N một cách công khai rồi tẩu thoát, tài sản có giá trị là 4.500.000 đồng và đã sử dụng xe gắn máy làm phương tiện thực hiện hành vi này nên được coi là “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”; ngoài ra, bị cáo còn “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi” và thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” nên cần phải xử bị cáo với mức án nghiêm. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d, g, i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm 06 tháng tù về “Tội cướp giật tài sản”. Về trách nhiệm dân sự, do bị hại đã được nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì nên không có ý kiến. Còn về vật chứng, đề nghị giao trả lại chiếc xe gắn máy biển số 85NA-45xx cho chị Phạm Thị Nhật Thảo.

Bị cáo không tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra – Công an quận Bình Tân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo Phạm Nhật T tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Vào khoảng 18 giờ 50 phút ngày 03/9/2022, bị cáo đã có hành vi nhanh chóng chiếm đoạt trái phép tài sản là chiếc điện thoại di động hiệu Iphone XS 64Gb màu vàng của em Quang Ngọc Quỳnh N tại trước nhà số 2, Đường Số 25A, phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân một cách công khai rồi tẩu thoát. Theo Kết luận định giá tài sản số: 512/KL-HĐĐGTS, ngày 19/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự quận Bình Tân thì, chiếc điện thoại di động của em Như trị giá 4.500.000 đồng. Bị cáo đã sử dụng chiếc xe gắn máy biển số 85NA-45xx làm phương tiện thực hiện hành vi này nên được coi là “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” và tại thời điểm đó, bị hại em N mới chỉ 10 tuổi 10 tháng là “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi” và đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà nay lại thực hiện hành vi phạm tội mới cũng rất nghiêm trọng do cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”. Do đó, bị cáo đã phạm “Tội cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định điểm d, g, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra, lời khai bị hại, những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, kết luận định giá tài sản…nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và lời đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận.

[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, khá táo bạo, liều lĩnh và xem thường pháp luật; đã lợi dụng sự sơ hở của người khác để chiếm đoạt trái phép tài sản một cách công khai ngay trên đường phố là không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân mà còn có thể gây ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ và gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai, vi phạm pháp luật Nng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích có tiền để thỏa mãn nhu cầu tiêu xài cá nhân nên cần phải xử bị cáo với mức án thật nghiêm và tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng N nhân thân của bị cáo thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên tại Cơ quan điều tra cũng N tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp và không có điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tuy tại phiên tòa hôm nay, bị hại em Quang Ngọc Quỳnh N và người đại diện hợp pháp cho em N là chị Nguyễn Thị Ngọc M đã được triệu tập hợp lệ mà vẫn vắng mặt nhưng theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thì, em N có chị Mai làm giám hộ đã được nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không có ai yêu cầu gì thêm nên không xét.

[7] Về vật chứng: Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Iphone XS 64Gb màu vàng của Quang Ngọc Quỳnh N, Cơ quan điều tra đã thu hồi và giao trả lại cho em N có chị Nguyễn Thị Ngọc M làm giám hộ nên không xét. Riêng chiếc xe môtô nhãn hiệu supersiva, biển số 85NA-45xx mà bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội là do anh Lê Công Th đứng tên sở hữu và đã bán lại có kèm theo giấy đăng ký xe cho chị ruột của bị cáo tên Phạm Thị Nhật Th. Xét, tuy việc mua bán chỉ bằng giấy tay (đã bị mất) và chưa làm thủ tục sang tên, nhưng được anh Th thừa nhận và chị Th không có lỗi trong việc cho bị cáo mượn xe nên cần giao trả chiếc xe này lại cho chị Thảo theo N đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là phù hợp.

[8] Bị cáo Phạm Nhật T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Nhật T phạm “Tội cướp giật tài sản”.

- Về điều luật áp dụng và xử phạt: Áp dụng điểm d, g, i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Phạm Nhật T 06 (sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 03-9-2022.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Giao trả lại cho cho chị Phạm Thị Nhật Thảo 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu supersiva, biển số 85NA-45xx.

(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân đang tạm giữ theo Phiếu nhập kho số: NK23/101TAM, ngày 10/3/2023) - Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Phạm Nhật T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Nhật T; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Phạm Thị Nhật Thảo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại em Quang Ngọc Quỳnh N và người đại diện hợp pháp cho em N là chị Nguyễn Thị Ngọc M vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 106/2023/HS-ST

Số hiệu:106/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;