Bản án về tội cưỡng đoat tài sản số 43/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 43/2022/HS-ST NGÀY 28/06/2022 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOAT TÀI SẢN

Trong ngày 28 tháng 6 năm 2022 tại Phòng xử A trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 33/2022/TLST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Hoàng T; sinh năm 1988 tại Bến Tre; nơi đăng ký thường trú: Ấp Tân Long 3, xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre; tạm trú: 207/5 Kha Vạn Cân, Phường Hiệp Bình Chánh, Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành L và bà Lê Thị V; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/11/2021; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

1/ Ông Nguyễn Năng T; sinh năm 1993; địa chỉ: 79/51/74 đường Bến Phú Định, Phường 16, quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

2/Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1988; địa chỉ: 666/64/37 đường Ba Tháng Hai, Phường 14, quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 11 giờ ngày 24/11/2021, Phòng Cảnh sát Hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, phát hiện Nguyễn Hoàng T đang nhận 1.700.000 đồng của ông Nguyễn Năng T tại trước số 913 đường 3/2, Phường 7, Quận 11 nên bắt giữ T cùng 01 xe mô tô biển số 80B2-0883, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu trắng đưa về trụ sở Công an Phường 7, Quận 11 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Sau đó, toàn bộ vụ việc chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 để điều tra xử lý.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, Nguyễn Hoàng T khai nhận: Do không có nghề nghiệp ổn định, T nảy sinh ý định tìm mua trang phục Cảnh sát nhân dân như: quần áo, giày, vớ, cầu vai, ve cổ, bảng tên... để hăm dọa những người khuyết tật xin ăn, bán hàng rong nhằm chiếm đoạt tài sản. Tmặc trang phục Cảnh sát nhân dân với cấp hàm Thượng úy chụp ảnh và đăng lên mạng xã hội zalo.

Vào khoảng tháng 3/2021, sau một thời gian theo dõi, Nguyễn Hoàng T biết được anh Nguyễn Năng T thường hay chở người khuyết tật đến khu vực ngã tư Hùng Vương - Ngô Quyền (gần nhà thờ Văn Lang) Quận 5 để bán hàng rong và xin tiền người đi đường. T gặp ông T tự xưng là Công an thuộc tổ kiểm tra liên ngành của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, rồi nói không được ăn xin tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Ông T muốn hoạt động phải đóng tiền cho T từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng một tháng, nếu không T sẽ bắt và xử lý. T đưa số điện thoại của mình cho ông T. Ông T đăng nhập zalo thấy các hình ảnh T mặc trang phục Cảnh sát nhân dân, nên ông Tlo sợ và đồng ý đưa tiền cho T để không bị bắt. Từ tháng 10/2021 cho đến ngày 24/11/2021, T 03 lần chiếm đoạt tổng số tiền 3.380.000 đồng của ông T, cụ thể:

- Lần thứ nhất: Vào giữa tháng 10/2021, anh T nhờ em trai tên Dũng đưa cho T số tiền 480.000 đồng tại nhà thờ Thánh Nữ trên đường Hùng Vương thuộc địa bàn Quận 5 (do vừa mới qua dịch Covid nên ông T chưa có tiền nên chỉ đưa 480.000 đồng);

- Lần thứ hai: Ngày 14/11/2021, ông T nhờ chị gái tên Sen chuyển khoản cho T số tiền là 1.200.000 đồng qua số tài khoản 0071001309890 tại Ngân hàng VietcomBank của T;

- Lần thứ ba: Ngày 24/11/2021, ông T trực tiếp đưa số tiền 1.700.000 đồng cho T trước số 913 đường 3/2 Phường 7, Quận 11 thì bị bắt quả tang như trên.

Cũng với thủ đoạn như trên Nguyễn Hoàng T 02 lần chiếm đoạt tổng số tiền 3.500.000 đồng của ông Nguyễn Văn C, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Vào giữa tháng 5/2021, ông C đưa cho T 1.500.000 đồng tại trước nhà thờ Văn Lang thuộc Phường 9, Quận 5.

- Lần thứ hai: Vào ngày 02/11/2021, ông C đưa cho T 2.000.000 đồng tại trước siêu thị Lottermart đường Lê Đại Hành, Phường 15, Quận 11.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, lời khai nhận của Nguyễn Hoàng T phù hợp với khai của Nguyễn Năng T và Nguyễn Văn C.

Vật chứng tạm giữ:

- 01 chiếc xe mô tô kiểu dáng giống xe Honda Dream, mang biển số 80B2-0883 có số khung VTTDCG074TT-002900, số máy VMESE2-035229. Theo Kết luận giám định số 1582/KLGĐ-X(Đ4) ngày 21/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, xác định số máy, số khung nguyên thủy không đổi. Xác minh tại Đội Cảnh sát Giao thông Công an Quận 11 (dữ liệu được liên thông toàn quốc) thì không có dữ liệu về chiếc xe có số khung, số máy trên.

T khai xe trên của một người quen tên thường gọi là chú N (không rõ lai lịch và tên thật của chú Năm) ở tỉnh Trà Vinh cho mượn sử dụng nhưng sau chú Năm chết nên bị cáo không biết trả cho ai nên giữ lại sử dụng từ đó đến nay.

Đối với biển số 80B2-0883 qua xác minh được biết đây là biển số được cấp cho xe máy hiệu Super Dream do Cục C27 - Bộ Công an (nay là Cục V06 - Bộ Công An quản lý). Số máy, số khung của xe máy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 thu giữ không trùng khớp với số máy, số khung xe được cấp cho Cục V06 - Bộ Công an. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 có văn bản đề nghị Cục V06 – Bộ Công an cho biết về việc sử dụng biển số xe trên nhưng đến nay chưa có kết quả .

- 01 bộ quần áo của lực lượng Cảnh sát nhân dân cùng các trang phục như: giày, tất, cầu vai, ve cổ, bảng tên thu giữ khi khám xét nơi ở của T. T trình bày những tài sản trên mua của những người đăng bán trên mạng xã hội và giao hàng công nghệ nên không rõ lai lịch của những người này. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 không đủ cơ sở xác minh làm rõ xử lý.

Đối với bảng tên có số hiệu: 492-381 mang tên Nguyễn Hoàng T, qua xác tại Cục Tổ chức cán bộ - Bộ Công an xác định không có trong dữ liệu quản lý của Bộ Công an.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu trắng. T dùng vào việc phạm tội.

- Tiền Việt Nam 1.700.000 đồng. Đây là số tiền mà Tuấn chiếm đoạt của ông Nguyễn Năng T vào ngày 24/11/2021.

Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 đang tạm giữ theo Lệnh nhập kho vật chứng số 137/LNK-ĐTTH ngày 02/12/2021.

Về trách nhiệm dân sự: Ngày 14/4/2022, bà Lê Thị V (mẹ Nguyễn Hoàng T) đã trả lại số tiền 3.500.000 đồng cho ông Nguyễn Văn C, ông C không yêu cầu gì thêm và có đơn bãi nại cho T. Ông Nguyễn Năng T yêu cầu Tuấn bồi thường số tiền 3.380.000 đồng, hiện ông T (cùng em trai tên D và chị gái tên S) qua xác minh đã đi khỏi địa phương, hiện không rõ ở đâu nên bà V không gặp để khắc phục hậu quả.

Đối với hành vi của Nguyễn Năng T và Nguyễn Văn C thuê hoặc đưa những người không rõ lai lịch đi bán hàng rong và đi ăn xin. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 tách xử lý riêng.

Bản cáo trạng số 37/CT-VKS ngày 16 tháng 5 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng T tội danh “Cướng đoạt tài sản”, thuộc trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 170 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo có lời khai phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

- Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 trình bày lời luận tội, giữ quan điểm như truy tố, nêu các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Hoàng T mức án từ 03 (Ba) năm đến 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù; đồng thời đề nghị hướng xử lý vật chứng, tài sản đã thu giữ:

+Đề nghị tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 chiếc xe mô tô kiểu dáng giống xe Honda Dream,có số khung VTTDCG074TT-002900, số máy VMESE2-035229; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu trắng;

+Đề nghị Tịch thu và tiêu hủy 01 biển số 80B2-0883; 01 bộ quần áo của lực lượng Cảnh sát nhân dân cùng các trang phục như: giày, tất, cầu vai, ve cổ, 01 bảng tên có số hiệu:

492-381 mang tên Nguyễn Hoàng T.

+Đề nghị trả lại cho ông Nguyễn Năng T số tiền 1.700.000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

+Đề nghị buộc bị cáo T tiếp tục bồi thường cho ông Nguyễn Năng T số tiền 1.680.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tung:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Hoàng T đã khai nhận hành vi “Cưỡng đoạt tài sản” như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với bản kết luận điều tra của Công an Quận 11, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án. Đối chiếu với các điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự quy định, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của bị cáo Nguyễn Hoàng T đã phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 170 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo hộ, gây mất trật tự trị an xã hội và tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương, gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của lực lượng Công an nhân dân. Giữa nơi công cộng, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội rất táo bạo và liều lĩnh bất chấp hậu quả xảy ra và bất chấp cả sự trừng trị của pháp luật.

Do đó, phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc, cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người tốt hơn, sau này biết tôn trọng tài sản của người khác. Đồng thời cũng nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Nguyễn Hoàng T không có việc làm ổn định, chỉ trong thời gian ngắn bị cáo đã 05 lần có hành vi cưỡng đoạt tài sản của người khác thuộc trường hợp “Có tính chất chuyên nghiệp”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố bị cáo theo tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 170 của Bộ luật hình sự là có cơ sở và đúng quy định pháp luật.

Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như bị cáo mới phạm tội lần đầu, chưa có tiền án tiền sự, gia đình bị cáo đã tự nguyện khắc phục một phần hậu quả, ông Nguyễn Văn C là người bị hại đã bãi nại cho bị cáo, tại cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 171 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xét tính chất của vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn phạt bổ sung.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay người bị hại vắng mặt, nhưng căn cứ vào hồ sơ vụ án xét thấy ông Nguyễn Văn C đã nhận lại được số tiền bị chiếm đoạt và không có yêu cầu hay thắc mắc khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử xét thấy không có gì giải quyết. Đối vơi người bị hại ông Nguyễn Năng Tiến yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền bị chiếm đoạt. Bị cáo Tuấn đồng ý bồi thường số tiền này. Xét sự tự nguyện thỏa thuận này không trái với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[6] Về xử lý vật chứng:

-Đối với 01 chiếc xe mô tô kiểu dáng giống xe Honda Dream, có số khung VTTDCG074TT-002900, số máy VMESE2-035229. Theo Kết luận giám định số 1582/KLGĐ-X(Đ4) ngày 21/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, xác định số máy, số khung nguyên thủy không đổi. Xác minh tại Đội Cảnh sát Giao thông Công an Quận 11 (dữ liệu được liên thông toàn quốc) thì không có dữ liệu về chiếc xe có số khung, số máy trên nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

-Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu trắng. T dùng vào việc phạm tội nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

- Đối với số tiền Việt Nam 1.700.000 đồng là số tiền bị cáo T có được do chiếm đoạt của ông Nguyễn Năng Tiến nên Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho ông Nguyễn Năng Tiến.

-Đối với biển số 80B2-0883 qua xác minh được biết đây là biển số được cấp cho xe máy hiệu Super Dream do Cục C27 - Bộ Công an (nay là Cục V06 - Bộ Công An quản lý). Số máy, số khung của xe máy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 thu giữ không trùng khớp với số máy, số khung xe được cấp cho Cục V06 - Bộ Công an. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11 có văn bản đề nghị Cục V06 – Bộ Công an cho biết về việc sử dụng biển số xe trên nhưng đến nay chưa có kết quả nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.

-Đối với 01 bộ quần áo của lực lượng Cảnh sát nhân dân cùng các trang phục như: giày, tất, cầu vai, ve cổ, bảng tên là bị cáo mua trên mạng để phục vụ cho việc làm phạm tội không rõ nguồn gốc nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.

-Đối với bảng tên có số hiệu: 492-381 mang tên Nguyễn Hoàng T, qua xác tại Cục Tổ chức cán bộ - Bộ Công an xác định không có trong dữ liệu quản lý của Bộ Công an nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.

-Đối với số tiền 3.500.000 đồng do bà Lê Thị V là mẹ bị cáo T đã bỏ ra bồi thường cho ông Nguyễn Văn Công bà Vân không yêu cầu bị cáo Tuấn trả lại và đồng ý cho bị cáo số tiền này nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng T phạm tội “Cưỡng đoat tài sản”.

Căn cứ vào Điều 50; điểm b, khoản 2, Điều 170; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt:

Nguyễn Hoàng T 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/11/2021 Căn cứ vào điểm a,c khoản 1, khoản 2 Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 và khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

+ Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước đối với 01 chiếc xe mô tô kiểu dáng giống xe Honda Dream, có số khung VTTDCG074TT-002900, số máy VMESE2-035229.

+ Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu trắng.

+ Tịch Thu và tiêu hủy 01 biển số 80B2-0883; 01 bộ quần áo của lực lượng Cảnh sát nhân dân cùng các trang phục như: giày, tất, cầu vai, ve cổ, 01 bảng tên có số hiệu: 492-381 mang tên Nguyễn Hoàng Tuấn.

+Trả lại cho ông Nguyễn Năng T số tiền 1.700.000 đồng.

(Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 137/LNK - ĐTTH ngày 02/12/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 11).

Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 468, Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Nguyễn Hoàng T có trách nhiệm tiếp tục bồi thường cho người bị hại ông Nguyễn Năng T số tiền 1.680.000đ đồng. Việc bồi thường được thực hiện ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày ông Nguyễn Năng T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo Nguyễn Hoàng T không thi hành khoản tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo phải chịu là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) và án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

338
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cưỡng đoat tài sản số 43/2022/HS-ST

Số hiệu:43/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;