Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 42/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN LỮ, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 42/2022/HS-ST NGÀY 14/12/2022 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Lữ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 40/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2022/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Khánh T, sinh ngày 01/12/2002 tại xã AV, huyện T, tỉnh Hưng Yên; nơi cư trú: Thôn NL, xã AV, huyện T, tỉnh Hưng Yên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Tuấn A và bà Phạm Thị Thanh Th; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 08/7/2022 đến ngày 14/7/2022 được tại ngoại áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú “có mặt tại phiên tòa”.

Bị hại: Anh Nguyễn Tùng D, sinh ngày 13/9/2004“vắng mặt”. Địa chỉ: Thôn CĐ, xã NT, huyện T, tỉnh Hưng Yên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Lê Hữu Tr, sinh năm 2004 “có mặt” Địa chỉ: Thôn TN, xã HĐ, huyện T, tỉnh Hưng Yên Người làm chứng:

- Anh An Xuân Kh, sinh năm 2004“vắng mặt”.

- Anh Phạm Thanh B, sinh năm 2002 “vắng mặt”.

- Anh Nguyễn Hải N, sinh năm 2002“vắng mặt”.

Đều có địa chỉ: Thôn ĐC, xã TN, thành phố HY, Hưng Yên.

- Anh Nguyễn Thế V, sinh năm 2004“vắng mặt”.

Địa chỉ: Thôn VT, xã BK, thành phố HY, tỉnh Hưng Yên.

- Anh Trương Đức A, sinh năm 1992“vắng mặt”.

Địa chỉ: Khu ĐQ, xã DC, huyện T, tỉnh Hưng Yên.

- Anh Đỗ Tấn H, sinh năm 2003“vắng mặt”.

Địa chỉ: Thôn NT, xã AV, huyện T, tỉnh Hưng Yên.

- Anh Lương Ngọc C, sinh năm 2004 “vắng mặt”.

Địa chỉ: Thôn NL, xã NQ, huyện T, tỉnh Hưng Yên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 6 năm 2022, Nguyễn Khánh T được Lê Hữu Tr nhờ đòi hộ Nguyễn Tùng D số tiền 8.000.000 đồng cho vay chưa trả. Chiều ngày 06/7/2022, biết D đang ngồi uống nước tại quán Cộng trà chanh ở xã DC, huyện Tiên Lữ nhưng do bận việc nên T nhờ An Xuân Kh đến tìm D. Kh rủ Nguyễn Thế V cùng đến gặp D ở quán Cộng trà chanh. Kh vào quán nói với D “ra kia nói chuyện với anh T tý xem có việc gì”, D đồng ý ngồi lên xe để V chở đến cửa hàng quần áo Thanh B ở Phố NT, thị trấn V, huyện T. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, T đến nói chuyện riêng với D ở phòng trong của cửa hàng. T hỏi “thế bây giờ tiền của thằng Tr em tính như thế nào”, D biết T đòi số tiền nợ Tr 8.000.000 đồng nhưng do chưa có tiền trả nên D im lặng. T thấy D không nói gì thì dùng tay phải tát 01 nhát vào vùng mặt D và hỏi tiếp “thế tại sao nhắn tin mày không trả lời”, D vẫn không nói gì, T bực tức dùng tay phải đấm 01 nhát vào vùng đầu D.

Khoảng 10 phút sau, T ra ngoài bảo Kh đi xin giấy bút rồi bắt D viết giấy nhận tiền đề ngày 25/5/2022 với nội dung D vay số tiền 8.000.000 đồng của Tr để mua điện thoại Iphone Xsmax. Sau khi viết giấy xong, T nảy sinh ý định bắt D viết giấy nhận tiền đối với mình để trả lãi mặc dù D không nợ tiền. T đọc cho D ghi 01 giấy nhận tiền đề ngày 25/5/2022 với nội dung D nhận 5.000.000 đồng của T để mua điện thoại Iphone 8plus. Khi viết xong, T bảo D đưa thẻ căn cước công dân và giấy nhận tiền rồi dùng điện thoại chụp ảnh lại. T nghĩ ngày 07/7/2022, D thi tốt nghiệp trung học phổ thông buộc phải có căn cước công dân thì mới được thi nên đã giữ thẻ căn cước công dân bắt D phải đưa số tiền 5.000.000 đồng. Do lo sợ không có thẻ căn cước công dân đi thi, D đến gặp anh Trương Đức A, sinh năm 1992 ở Khu ĐQ, xã DC, huyện T mượn số tiền 3.000.000 đồng, sau đó gọi điện thoại hẹn T đến quán game Galaxy thuộc Phố NT, thị trấn V, huyện T đưa tiền. T nhờ Đỗ Tấn H chở ra quán game Galaxy nhận 3.000.000 đồng rồi trả thẻ căn cước công dân cho D. Sau đó T nói “thế còn hai triệu nữa đâu, mày không đưa nốt thì sáng mai tao chặn đánh ở cổng trường không cho mày thi”, D bảo “để tí em đưa nốt”. Do sợ bị đánh không được vào thi nên D tiếp tục đến gặp anh A vay thêm 2.000.000 đồng. T điện thoại nói D ra quán Mr. C ở đường Nội thị 1, thị trấn V đưa tiền. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, D đến cửa quán Mr. C đưa cho T 2.000.000 đồng thì bị lực lượng Công an thị trấn Vương kiểm tra, lập biên bản vụ việc, thu giữ của T số tiền 5.000.000 đồng, 01 điện thoại di động Galaxy Note 8, 01 xe mô tô Yamaha Exciter BKS 89B2- X, quản lý của D 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Tùng D. Công an thị trấn Vương đã bàn giao hồ sơ, vật chứng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Lữ để thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Khánh T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Việc An Xuân Kh và Nguyễn Thế V có hành vi đưa D đến quán quần áo Thanh B và lấy giấy bút đưa cho T bắt D viết giấy nhận tiền nhưng Kh, V không biết việc T cưỡng đoạt tiền, không được hưởng lợi gì nên không phải là đồng phạm, không có căn cứ xử lý đối với Kh và V.

Đối với Phạm Thanh B cho T mượn phòng để nói chuyện với D tại cửa hàng quần áo nhưng B không biết việc T cưỡng đoạt tiền của D và không được hưởng lợi gì nên không có căn cứ xử lý đối với B.

Đỗ Tấn H có hành vi chở T đến quán game Galaxy nhưng H không biết việc T cưỡng đoạt tiền của D và không được hưởng lợi gì nên không có căn cứ xử lý đối với H Việc Lê Hữu Tr nhờ T đòi hộ số tiền 8.000.000 đồng trước đó cho D vay nhưng Tr không biết việc T cưỡng đoạt số tiền 5.000.000 đồng của D nên không có căn cứ xử lý đối với Tr.

Về vật chứng và trách nhiệm dân sự: Số tiền 5.000.000 đồng và 01 thẻ căn cước công dân mang tên Nguyễn Tùng D, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Lữ đã trả lại cho D. D nhận lại tài sản, không yêu cầu đề nghị gì khác.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS 89B2- X, quá trình điều tra xác định là tài sản của Đỗ Tấn H, sinh năm 2003 ở Thôn NT, xã AV, huyện T không liên quan đến tội phạm nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Lữ đã trả lại cho H.

Bản cáo trạng số 42/CT-VKS-TL ngày 10/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lữ truy tố bị cáo Nguyễn Khánh T về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, theo quy định tại Khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát luận tội và tranh luận: Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội Cưỡng đoạt tài sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự. Do đó, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 170; Điểm h, s khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách theo quy định.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã AV, huyện T, tỉnh Hưng Yên giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Anh D đã nhận lại số tiền 5.000.000 đồng và 01 thẻ căn cước công dân, không yêu cầu gì thêm nên không xem xét giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm b Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; Khoản 1 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động Galaxy Note 8, vỏ màu xanh, số Imei 358334082163818, bên trong gắn 01 sim số seri 89840200011268740741 đã qua sử dụng.

Bị cáo Nguyễn Khánh T tự bào chữa: Nhất trí với cáo trạng truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát huyện Tiên Lữ xác định các bị cáo phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” và đề nghị HĐXX xem xét đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để giảm nhẹ một phần hình phạt, cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Lữ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lữ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2].Về nội dung: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án như: Biên bản vụ việc ngày 06/7/2022; Biên bản giao nhận tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử ngày 07/7/2022; lời khai của bị hại; lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; lời khai của người làm chứng. Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện Tiên Lữ có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 18 giờ ngày 06/7/2022, tại cửa hàng quần áo Thanh B ở Phố NT, thị trấn V, huyện T Nguyễn Khánh T đã có hành vi đe dọa dùng vũ lực, giữ thẻ căn cước công dân của anh Nguyễn Tùng D ép viết giấy nhận nợ số tiền 5.000.000 đồng. Do lo sợ bị đánh và không có thẻ căn cước công dân đi thi tốt nghiệp trung học phổ thông nên anh D miễn cưỡng phải đi vay số tiền 5.000.000 đồng để đưa cho Nguyễn Khánh T. Tổng số tiền bị cáo chiếm đoạt của anh D là 5.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cưỡng đoạt tài sản” quy định tại Khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lữ truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.

[3]. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo đã đe dọa, dùng tay đánh, giữ thẻ căn cước công dân nhằm ép buộc anh D viết giấy nhận nợ, rồi chiếm đoạt được số tiền 5.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo thể hiện sự liều lĩnh, táo bạo, coi thường pháp luật nên cần đưa ra mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[4]. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; số tiền chiếm đoạt 5.000.000đ đã được thu hồi trả cho bị hại nên thuộc trường hợp phạm tội gây thiệt hại không lớn; bị hại có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Từ những phân tích và nhận định như trên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo tuổi đời còn trẻ phạm tội lần đầu, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, bị hại có đơn đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nếu không bắt đi chấp hành hình phạt tù sẽ không ảnh hưởng đến việc phòng chống tội phạm, đủ điều kiện được hưởng án treo nên không cần thiết bắt bị cáo chấp hành hình phạt trong trại giam, chỉ cần xử phạt tù cho hưởng án treo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình cũng đủ điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo đáp ứng nhu cầu phòng ngừa tội phạm trong toàn xã hội như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lữ tại phiên tòa.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 170 Bộ luật Hình sự thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên toà cho thấy bị cáo làm nghề lao động tự do thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với hành vi đưa D đến quán quần áo Thanh B và lấy giấy bút đưa cho T bắt D viết giấy nhận nợ của An Xuân Kh và Nguyễn Thế V, nhưng Kh, V không biết việc T cưỡng đoạt tiền của D và không được hưởng lợi gì nên không phải là đồng phạm, không có căn cứ xử lý đối với Kh, V là đúng pháp luật.

Đối với hành vi chở T đến quán game Galaxy của Đỗ Tấn H; Lê Hữu Tr nhờ T đòi hộ số tiền 8.000.000 đồng cho D vay; Phạm Thanh B cho T mượn phòng để nói chuyện, nhưng Đỗ Tấn H, Lê Hữu Tr và Phạm Thanh B đều không biết việc T cưỡng đoạt số tiền 5.000.000đ của D và không được hưởng lợi gì nên không có căn cứ xử lý đối với H, Tr, B là phù hợp.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Tùng D đã nhận lại số tiền 5.000.000 đồng và 01 thẻ căn cước công dân, không yêu cầu, đề nghị gì nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[7]. Về xử lý vật chứng: 01 điện thoại di động Galaxy Note 8, vỏ màu xanh, số Imei 358334082163818, bên trong gắn 01 sim số seri 89840200011268740741 đã qua sử dụng, thu giữ của Nguyễn Khánh T, không liên quan đến hành vi phạm tôi nên trả lại cho bị cáo.

Chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS 89B2- X là tài sản của Đỗ Tấn H không liên quan đến tội phạm nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Lữ trả lại cho H là đúng pháp luật.

[8]. Về án phí: Bị cáo bị kết tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

[9]. Luận tội và đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Lữ tại phiên tòa về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt đối với bị cáo và các vấn đề khác cần giải quyết trong vụ án là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 170; Điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Khánh T phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Khánh T 01 năm 06 tháng tù (một năm sáu tháng tù) cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 năm (ba năm) được tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã AV, huyện T, tỉnh Hưng Yên giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm b Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; Khoản 1 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại bị cáo Nguyễn Khánh T 01 điện thoại di động Galaxy Note 8, vỏ màu xanh, số Imei 358334082163818, bên trong gắn 01 sim số seri 89840200011268740741 đã qua sử dụng, không liên quan đến việc phạm tội. (Tình trạng, số lượng vật chứng theo phiếu nhập kho ngày 21/11/2022 giữa cơ quan Công an và Chi cục THADS huyện Tiên Lữ).

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí sơ thẩm hình sự.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; vắng mặt bị hại. Báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại biết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên để xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 42/2022/HS-ST

Số hiệu:42/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lữ - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;