TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ LỘC, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 15/2022/HS-ST NGÀY 05/05/2022 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 05 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 08/2022/HSST ngày 25 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2022/HSST-QĐ ngày 21 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Minh H, sinh năm 2000 tại xã T, huyện L, tỉnh Nam Định.
Nơi cư trú: Thôn P, xã T, huyện L, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Minh H và bà Trần Thị D; vợ con: Không; tiền án: Không; tiền sự: Không; hiện tại ngoại; có mặt.
- Bị hại: Chị Trần Thị U, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Xóm X, xã N, huyện H, tỉnh Nam Định; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau.
Thông qua mạng xã hội Zalo, Nguyễn Minh H sử dụng tài khoản “H N” kết bạn qua tài khoản “M” với chị Trần Thị U. Tối ngày 11/11/2021, H cùng chị U nhắn tin gặp nhau quan hệ tình dục tại nhà nghỉ thuộc xã T, huyện L, tỉnh Nam Định và H có đưa chị U số tiền 1.600.000đ. Sau khi về nhà, H suy nghĩ đã cho chị U nhiều tiền nên nảy ý lấy lại tiền của chị U. Đêm ngày 13/11/2021, H nhắn tin hẹn gặp chị U tại nhà nghỉ hôm trước với mục đích để lấy lại tiền. Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 14/11/2021, chị U đi xe Taxi đến theo sự chỉ dẫn của H đứng vào hẻm phía sau nhà nghỉ. Để giả danh làm người có quyền hạn, H mặc chiếc áo sơ mi màu xanh của lực lượng dân quân tự vệ và đi xe mô tô đến gặp chị U nói “Có người thông báo với tôi là chị đang ở đây” và yêu cầu chị U xuất trình CMND; giấy xác nhận tiêm phòng Covid 19 và đưa điện thoại để kiểm tra. Do không nhận ra H và nghĩ bị lực lượng dân phòng kiểm tra nên chị U đã chấp hành theo yêu cầu của H. Sau khi chị U đổ hết đồ cá nhân trong túi xuống đất thấy không có tiền, H nảy ý chiếm đoạt chiếc điện thoại nên yêu cầu chị U cung cấp mật khẩu và mở điện thoại để kiểm tra. Chị U mở điện thoại đưa kiểm tra thì H cầm xem rồi tắt nguồn, đút điện thoại vào túi quần yêu cầu chị U đi ra đầu ngõ để giải quyết. Trong lúc di chuyển, chị U đi bộ phía sau thì H nhảy lên phóng xe tẩu thoát.
Sau khi sự việc xảy ra, chị U đến Công an xã T trình báo. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, làm rõ hành vi của H và thu giữ các vật chứng liên quan do H tự giác giao nộp gồm: 01 áo sơ mi màu xanh, tay áo bên trái có dòng chữ “Dân quân tự vệ”; 01quần dài vải thun màu đen; 01 đôi dép nhựa đế đen, quai trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note 7 pro màu đen; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave α màu trắng biển số 54M4-86xx. Đối với chiếc điện thoại Iphone 11 của chị U, sau khi chiếm đoạt được H đem đi cất giấu và đã bị mất, không thu hồi được.
Cơ quan điều tra đã ra quyết định trưng cầu giám định dữ liệu điện tử trong chiếc điện thoại di động Redmi Note 7 của H (Ký hiệu A) để trích xuất nội dung tin nhắn trong phần mềm mạng xã hội Zalo giữa tài khoản Zalo “H N” và tài khoản Za lo “M”.
Bản kết luận giám định số 1484/KL-PC09 ngày 30/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Trích xuất được trong mẫu cần giám định (Ký hiệu A) nội dung tin nhắn trong phần mềm mạng xã hội Zalo giữa tài khoản Zalo “H N’ và tài khoản Zalo “M” gồm: 01 (một) tin nhắn Zalo.
Bản kết luận định giá tài sản số 20/KL-HĐĐGTS ngày 30/11/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Mỹ Lộc kết luận: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu gold (vàng), bản 256 GB, số IMEI 353921107345928, điện thoại đã qua sử dụng (trong điều kiện hoạt động bình thường) có giá trị là 17.000.000đ (Mười bảy triệu đồng).
Tại cơ quan điều tra, H khai nhận toàn bộ việc thực hiện hành vi chiếm đoạt chiếc điện thoại của chị U như trên.Về trách nhiệm dân sự, H đã bồi thường trị giá chiếc điện thoại cho chị U với số tiền 25.000.000đ (Hai lăm triệu đồng) được chị U chấp nhận và có quan điểm xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho H.
Bản cáo trạng số 13/CT-VKSML ngày 24/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Nguyễn Minh H về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự; xác định bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng, được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại” và “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, bị cáo H khai nhận rõ việc thực hiện hành vi phạm tội như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố; xác nhận kết luận định giá về giá trị chiếc điện thoại đã chiếm đoạt của bị hại là đúng; Viện kiểm sát truy tố là không oan; bản thân rất hối hận về việc làm vi phạm pháp luật nên đã chủ động gặp gỡ, thoả thuận bồi thường giá trị chiếc điện thoại chiếm đoạt của bị hại và được bị hại chấp thuận. Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”; căn cứ áp dụng khoản 1 Điều 170; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo từ 15 đến 21 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 đến 42 tháng; tịch thu tiêu huỷ bộ quần áo và đôi dép thu giữ của bị cáo; trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại cùng với chiếc xe mô tô đã thu giữ. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, tạo điều kiện cho được tự sửa chữa lỗi lầm.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mỹ Lộc cũng như Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc cũng như Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo, bị hại cũng như những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy lời khai bị cáo tại phiên toà là hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án như: Đơn trình báo và lời khai của bị hại; kết quả khám nghiệm hiện trường và thực nghiệm điều tra vụ án; vật chứng vụ án thu giữ cùng kết luận giám định dữ liệu điện tử cũng như toàn bộ lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra. Từ các tình tiết chứng cứ này đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 14/11/2021, tại trục đường thôn Đ, xã T, huyện L, tỉnh Nam Định, Nguyễn Minh H đã có hành vi sử dụng sắc phục dân quân tự vệ và bằng lời nói, hành động giả làm người có quyền hạn nhằm để uy hiếp tinh thần chị Trần Thị U chiếm đoạt một chiếc điện thoại Iphone 11 Pro Max màu gold (vàng) trị giá 17.000.000đ (Mười bảy triệu đồng). Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 170 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Minh H là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã dùng thủ đoạn uy hiếp tinh thần, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác là khách thể được pháp luật Nhà nước bảo hộ. Mặt khác, hành vi của bị cáo không những gây bất bình, phẫn nộ trong quần chúng nhân dân mà còn ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi nhưng vì động cơ thấp hèn mà dấn thân vào con đường phạm tội. Việc bị cáo giả danh dân quân tự vệ để thể hiện mình là người có quyền hạn kiểm tra hành chính nhằm uy hiếp tinh thần, chiếm đoạt tài sản của người khác là thủ đoạn hết sức táo bạo và nguy hiểm. Hành vi đó không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn gây hiểu nhầm, ảnh hưởng xấu đến uy tín, hình ảnh của người dân quân tự vệ nói riêng và lực lượng thực thi công vụ an ninh, trật tự nói chung. Hành vi đó của bị cáo là vi phạm pháp luật Nhà nước, trái với đạo đức xã hội. Vì vậy, bị cáo sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của mình.
[4] Về trách nhiệm hình sự: Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi, khách thể được pháp luật Nhà nước bảo hộ bị xâm phạm, động cơ mục đích phạm tội của bị cáo, hậu quả nguy hại cho xã hội thì đối với bị cáo cần phải áp dụng biện pháp giáo dục nghiêm để cải tạo là thoả đáng; đồng thời cũng mới đáp ứng được yêu cầu răn đe, giáo dục phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét về nhân thân thì bị cáo không có tiền án, tiền sự; hành vi phạm tội của bị cáo không có tình tiết nào bị coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; bị cáo phạm tội lần đầu bị đưa ra xét xử; quá trình khai báo bị cáo thành khẩn, nhận thức lỗi lầm, ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại và bị hại đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bản thân bị cáo đã có thời gian hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Đây là những tình tiết được Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước. Xét biện pháp giáo dục của Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly xã hội mà cho bị cáo tự cải tạo, sửa chữa lỗi lầm tại cộng đồng dưới sự giám sát của chính quyền địa phương cũng có thể trở thành công dân tốt. Vì vậy, giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát, giáo dục là phù hợp.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Giữa bị cáo và bị hại đã tự thoả thuận bồi thường xong cho nhau về giá trị tài sản bị chiếm đoạt, không có yêu cầu đề nghị gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là nông dân lao động, hoàn cảnh kinh tế gia đình có phần khó khăn nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng của vụ án: 01 áo sơ mi màu xanh, tay áo bên trái có dòng chữ “Dân quân tự vệ”; 01quần dài vải thun màu đen; 01 đôi dép nhựa đế đen, quai trắng được xác định là trang phục bị cáo sử dụng khi thực hiện hành vi phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên sẽ bị tịch thu tiêu huỷ.
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note 7 pro màu đen; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave α màu trắng biển số 54M4-86xx được xác định là công cụ, phương tiện của bị cáo dùng vào việc phạm tội. Việc Viện kiểm sát đề nghị trả lại những vật chứng này cho bị cáo là trái quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Vì vậy, những vật chứng này sẽ bị tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.
Căn cứ áp dụng khoản 1 Điều 170; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo H 18 (Mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách 36 (Ba sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án 05 tháng 5 năm 2022.
Giao bị cáo H cho Uỷ ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; bị cáo phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách; trường hợp có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về xử lý vật chứng:
Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) áo sơ mi màu xanh, tay áo bên trái có dòng chữ “Dân quân tự vệ”; 01(một) quần dài vải thun màu đen; 01 (một) đôi dép nhựa đế đen, quai trắng. Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note 7 pro màu đen cùng 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave α màu trắng biển số 54M4-86xx theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 24 tháng 3 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
3. Về án phí:
Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án;
Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 15/2022/HS-ST
Số hiệu: | 15/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Lộc - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/05/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về