Bản án về tội cố ý làm hư hỏng tài sản số 38/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ GC, TỈNH TG

BẢN ÁN 38/2024/HS-ST NGÀY 16/09/2024 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố GC, tỉnh TG xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 36/2024/TLST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2024/QĐXXST- HS ngày 30 tháng 8 năm 2024, đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày 15/5/1989, tại thành phố GC, tỉnh TG; Giới tính: Nữ; Chứng minh nhân dân số: 311954408 do Công an tỉnh TG cấp ngày 09/3/2012. Nơi cư trú: khu phố KL, phường LH, thành phố GC, tỉnh TG; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Cha là ông Nguyễn Văn H (chết) và mẹ bà Trần Thị Kim S; Chồng: Nguyễn Anh T (đã chết). Có 01 con sinh năm 2010.

- Tiền án: Không.

- Tiền sự: 01 lần.

Năm 2020, bị cáo bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 01 năm, theo Quyết định số 40/2020/QĐ-TA ngày 27/5/2020 của Tòa án nhân dân thị xã GC (nay là Tòa án nhân dân thành phố GC); chấp hành xong ngày 03/3/2021.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 11/02/2022. Ngày 11/5/2022, bị cáo bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh tại Viện pháp y Tâm thần Trung ương Biên Hoà.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người giám hộ: Bà Trần Thị Kim S, sinh năm 1959 (Có mặt) Nơi cư trú: Khu phố KL, phường LH, thành phố GC, tỉnh TG

- Bị hại:

1. Ngân hàng V – Chi nhánh thành phố GC (A)

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Phi Ch - Giám đốc Ngân hàng V - Chi nhánh thành phố GC, tỉnh TG (Xin vắng mặt) Địa chỉ: Số 4 Trương Định, khu phố 1, phường 1, thành phố GC, tỉnh TG.

2. Ngân hàng T (SCB) - Chi nhánh GC

Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Thiện T - Giám đốc Ngân hàng T (SCB) - Chi nhánh GC (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 62A Trần Thị Thơm, khu phố 3, phường 9, thành phố GC, tỉnh TG.

- Người làm chứng:

1. Ông Trương Minh H, sinh năm 1963 (Vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố KL, phường L H, thành phố GC, tỉnh TG;

2. Bà Trần Thị G, sinh năm 1953 (Có mặt) Địa chỉ: Số 165 Phạm Ngũ Lão, khu phố 3, phường 2, thành phố GC, tỉnh TG

3. Ông Lê Vĩnh Q, sinh năm 1973 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp X Th, xã B T, huyện GC , TG.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ 03 giờ đến 04 giờ ngày 11 tháng 12 năm 2021, bị cáo Nguyễn Thị Thanh T đã liên tiếp thực hiện 02 vụ cố ý làm hư hỏng tài sản là các máy rút tiền tự động (gọi tắt là ATM) của Ngân hàng T (gọi tắt là SCB) và Ngân hàng V (gọi tắt là A) trên địa bàn thị xã GC (nay là thành phố GC), cụ thể sau:

Vụ thứ nhất:

Vào khoảng 03 giờ ngày 11 tháng 12 năm 2021, bị cáo T sau khi sử dụng ma túy tổng hợp (ma túy đá), bị cáo đi bộ đến khu vực chợ GC, đi ngang ATM số hiệu 24300100 của SCB - Chi nhánh GC tại địa chỉ: Số 17D, đường Trương Định, Khu phố 1, Phường 1, thành phố GC. Bị cáo T nhớ bản thân có thẻ ATM của SCB nên vào bên trong kiểm tra, bị cáo T bấm vào các nút trên ATM 24300100 nhưng không hiển thị tên của bị cáo T thì bị cáo T bỏ đi. Một lát sau, bị cáo quay lại dùng ly nước bằng nhựa ném vào màn hình ATM 24300100, tiếp tục nhặt 01 viên gạch (loại gạch lát vỉa hè) ở lề đường phía trước rồi dùng hai tay ném mạnh viên gạch vào khu vực màn hình phía trước của ATM 24300100 gây hư hỏng mặt nhựa khoang kỹ thuật “P77 Solo" của ATM. Bị cáo T bỏ đi một lát thì quay lại dùng tay tháo rời những mảnh vỡ trên màn hình ATM rồi bỏ xuống lề đường gần vị trí ATM.

Theo Kết luận định giá tài sản số 07/KL-HĐĐGTS ngày 22/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã GC xác định giá trị tài sản bị thiệt hại như sau: 01 (một) mặt nhựa khoang kỹ thuật của ATM "P77Solo" SCB - Chi nhánh GC, trị giá 10.000.000 (mười triệu) đồng.

Về giải quyết trách nhiệm dân sự.

Người đại diện theo pháp luật của SCB - Chi nhánh GC là ông Ngô Thiện Toàn không yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị tài sản bị thiệt hại.

Vụ thứ hai:

Khoảng 15 phút sau khi thực hiện xong vụ thứ nhất, bị cáo T đi bộ đến trụ sở A - Chi nhánh thị xã GC tại địa chỉ: Số 04, đường Trương Định, Khu phố 1, Phường 1, thành phố GC. Bị cáo T tiến vào buồng ATM số hiệu 6906A002 của A - Chi nhánh thị xã GC, bị cáo bấm các nút trên ATM 6906A002 được khoảng 05 phút thì bỏ đi. Khoảng 15 phút sau, bị cáo T quay lại buồng ATM 6906A002 rồi nhặt ở lề đường phía trước 01 viên gạch màu đen rồi dùng hai tay ném thẳng vào màn hình của ATM 6906A002 làm vỡ màn hình. Khoảng 10 phút sau, bị cáo T tiếp tục lấy viên gạch ném vào màn hình ATM số hiệu 6906A003 ở kế bên làm trầy xước màn hình ATM.

Vật chứng đã tạm giữ:

- 01 (một) tấm kính cường lực bảo vệ màn hình ATM 6906A002 kích thước (19 x 25) cm bị vỡ.

- 01 (một) vật cứng hình dạng giống chữ nhật màu xám đen, kích thước (24 x 7,5 x 01) cm.

Theo Kết luận định giá tài sản số 02/KL-HĐĐGTS ngày 05/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản thị xã GC xác định giá trị tài sản bị thiệt hại như sau:

01 (một) tấm kính cường lực bảo vệ màn hình của ATM 6906A002 trị giá 3.000.000 (ba triệu) đồng.

Về giải quyết trách nhiệm dân sự:

Người đại diện theo pháp luật của A - Chi nhánh thị xã GC (nay là thành phố GC) là ông Trần Phi Ch, không yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị thiệt hại của ATM 6906A002.

Đối với ATM 6906A003 bị trầy xước màn hình, ông Ch từ chối định giá để xác định thiệt hại nên Cơ quan điều tra không đặt ra xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị cáo T về thiệt hại của ATM 6906A003.

Tại Cáo trạng số 36/CT-VKSGC ngày 15/8/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố GC đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thanh T về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ đã thể hiện, không có ý kiến tranh luận bổ sung.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố GC vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 178; Điều 38; Điều 50; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh T từ 09 (Chín) tháng đến 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án trừ thời gian tạm giam từ ngày 11/02/2022 đến ngày 11/5/2022.

Về vật chứng vụ án:

- 01 (một) tấm kính cường lực bảo vệ màn hình ATM 6906A002 kích thước (19 x 25) cm bị vỡ.

- 01 (một) vật cứng hình dạng giống chữ nhật màu xám đen, kích thước (24 x 7,5 x 01) cm.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện bị hại không yêu cầu nên đề nghị ghi nhận Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết lỗi. Mong Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố GC, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố GC, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án:

Vào khoảng từ 03 giờ đến 04 giờ rạng sáng ngày 11 tháng 12 năm 2021, tại Phường 1, thị xã GC (nay là thành phố GC), tỉnh TG, bị cáo Nguyễn Thị Thanh T có hành vi dùng gạch cứng ném vào màn hình ATM của Ngân hàng T - Chi nhánh GC và ATM của Ngân hàng V – Chi nhánh thành phố GC gây hư hỏng, giá trị thiệt hại tài sản của Ngân hàng T - Chi nhánh GC là 10.000.000 (mười triệu) đồng và của Ngân hàng V – Chi nhánh thành phố GC là 3.000.000 (ba triệu) đồng, tổng giá trị thiệt hại tài sản là 13.000.000 (mười ba triệu) đồng.

Lời khai nhận trên của bị cáo đã phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng thu giữ, Kết luận giám định đồng thời trùng khớp với các lời khai trước đây của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo ý thức được rằng quyền sở hữu tài sản của người khác là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác là vi phạm pháp luật thể hiện thái độ xem thường pháp luật của bị cáo nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian tương xứng với hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo có ý thức tôn trọng pháp luật và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo thực hiện liên tiếp 02 vụ cố ý làm hư hỏng tài sản với giá trị thiệt hại của mỗi vụ đều đủ định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự nên thuộc trường hợp phạm tội 02 lần quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì thái độ của bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có ông ngoại là Liệt sĩ là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tại thời điểm phạm tội, bị cáo T bị mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Tuy nhiên, xét triệu chứng về T thần là do bị cáo sử dụng trái phép chất ma túy (Bị cáo sử dụng từ năm 2011) gây ra, đây là nguyên nhân chủ quan từ hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo gây ra chứ không phải do bệnh lý tự phát sinh từ cơ thể của bị cáo nên bị cáo vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện theo quy định tại Điều 13 Bộ luật Hình sự.

[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

- 01 (một) tấm kính cường lực bảo vệ màn hình ATM 6906A002 kích thước (19 x 25) cm bị vỡ.

- 01 (một) vật cứng hình dạng giống chữ nhật màu xám đen, kích thước (24 x 7,5 x 01) cm.

Không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ. [6] Về trách nhiệm dân sự:

Do người đại diện theo pháp luật của bị hại không yêu cầu nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 178; Điều 38, Điều 50; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự;

- Khoản 1, Điểm a khoản 2 Điều 106 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thanh T phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh T 01 (Một) năm tù. Thời gian tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án trừ thời gian tạm giam từ ngày 11/02/2022 đến ngày 11/5/2022.

2. Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Tịch thu, tiêu huỷ:

- 01 (một) vật cứng hình dạng giống chữ nhật màu xám đen, kích thước 24cm x 7,5cm x 1cm;

- 01 (một) tấm kính cường lực bảo vệ màn hình của trụ ATM6906A002 bị bể.

Thời gian thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16 tháng 9 năm 2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố GC và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố GC.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Thị Thanh T phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người giám hộ cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại vắng mặt thời hạn kháng cáo 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý làm hư hỏng tài sản số 38/2024/HS-ST

Số hiệu:38/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Gò Công - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;