Bản án về tội cố ý làm hư hỏng tài sản số 14/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 14/2022/HS-ST NGÀY 22/03/2022 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 22/3/2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 07/2022/TLST-HS ngày 28 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:13/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 02 năm 2022 và Quyết định Hoãn phiên tòa số: 04/2022/HSST- QĐ ngày 04/3/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hà Văn N, sinh ngày: 04/10/1994 tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ; Nơi cư trú: Khu Rịa 1, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Bố: Hà Văn Đ, sinh năm 1970, con bà: Đinh Thị Đ, sinh năm 1971; Vợ, con: Chưa có; Anh chị em ruột: Có 03 chị, em; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 12/11/2021. Đến ngày 09/12/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp Bảo lĩnh. Bị cáo chấp hành biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh tại xóm Rịa 1, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Bùi Đức D - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Thọ. (Có mặt).

* Người bị hại: Anh Ôn Văn S, sinh năm 1990. (Có mặt).

Địa chỉ: Thôn HT, xã N, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

* Người làm chứng:

Anh Hà Văn T, sinh năm 1994 (Vắng mặt). Anh Hà Văn T, sinh năm 1993 (Vắng mặt).

Đều có địa chỉ: Xóm Rịa 1, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng đầu tháng 9/2021 Hà Văn N làm công nhân xây dựng cho anh Ôn Văn S, nhưng do N đánh nhau với công nhân khác tại công trường nên đã bị anh S đuổi việc. Khoảng 13 giờ ngày 20/9/2021 anh S điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Getz, màu xanh BKS 29A-908.30 đi từ tỉnh Vĩnh Phúc đến nhà bà Hà Thị L, sinh năm 1959 trú tại xóm Rịa 1, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ để đón anh Hà Văn T và anh Hà Văn T đi làm công nhân xây dựng cho anh S. Khi anh S đến nhà bà L, lúc này có bà L, anh Đinh Văn Thiếu (là con rể bà L) và chị Đinh Thị Tươi (là con gái bà L) ở nhà, anh S vào uống nước chờ anh Tiến và anh Tư đến. N biết thông tin anh Sáu ở nhà bà L, do bực tức và nghĩ anh S đuổi việc mình là không đúng nên N bảo Hà Văn Chuyền, sinh năm 1999 ở cùng khu Rịa 1 chở N đến nhà bà L mục đích để bắt anh S xin lỗi. Chuyền điều khiển xe Yamaha màu xanh đục của Chuyền chở N đến nhà bà L. Khi gặp anh S, N chửi “Đ.mẹ mày phải xin lỗi tao nếu không tao đánh mày không về được”, anh S đáp “Em không có lỗi gì mà xin, em lên lấy người đi làm ăn”. Thấy vậy bà L và anh Thiếu can ngăn, bảo N đi về không được đánh nhau nên N và Chuyền ra về. Khi về đến nhà N, do vẫn bực tức muốn anh S phải xin lỗi, N đã bảo Chuyền vào bếp lấy cho N con dao để N đi dọa anh S (giữa N và Chuyền không bàn bạc trao đổi hay phân công nhiệm vụ gì). Chuyền lấy đưa cho N 01 con dao bài (loại dao đi làm đồi, có vỏ bằng gỗ bọc bên ngoài, chiều dài khoảng 40,5cm, chuôi dao bằng gỗ dài 12cm, đường kính chuôi dao khoảng 3cm, lưỡi dao bằng kim loại, gáy dao bằng, lưỡi sắc, bản rộng nhất của lưỡi dao khoảng 07cm, đầu dao bằng, có đục 01 lỗ tròn đường kính 32mm, một đầu ống nhựa được gắn vào chuôi dao, đầu còn lại gắn một đoạn gỗ cứng bên trong ống nhựa), N điều khiển xe của C chở C đi sang nhà bà L. Lúc này anh S đã đưa anh Tiến và anh Tư đi hướng về tỉnh Vĩnh Phúc. N điều khiển xe mô tô đuổi theo anh S khi đi đến đường bê tông thuộc xóm Rịa 1, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn thì gặp xe ô tô anh S đang đi, N đi lên trước chặn đầu xe ô tô của anh S. Lúc này N cầm trên tay con dao mang từ nhà, còn Chuyền nhặt 01 cọc rào bằng gỗ dài khoảng 1,2m đường kính khoảng 3-4cm tiến đến đứng gần xe ô tô anh S. N đứng ở cửa phía trước bên lái, Chuyền đứng ở phía trước ghế phụ bên phải của xe ô tô. N và Chuyền gõ nhẹ vào kính chắn gió phía trước xe yêu cầu anh S mở kính xe nhưng anh S không mở. Lúc này N cầm chuôi dao đập mạnh phần gỗ vào góc trên bên trái kính chắn gió phía trước xe ô tô theo chiều hướng từ trên xuống dưới làm nứt vỡ kính chắn gió xe ô tô. Thấy vậy anh S sợ nên đã điểu khiển xe lách ra lề cỏ đất bên đường tránh xe mô tô để đi, anh S đến Công an xã Võ Miếu trình bày sự việc.

Sau khi tiếp nhận sự việc Công an xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn lập hồ sơ ban đầu xác định hành vi của Hà Văn N có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự, Công an xã Võ Miếu chuyển hồ sơ đến Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Sơn giải quyết theo thẩm quyền ngày 20/9/2021.

Ngày 06/10/2021 Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Sơn đề nghị Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Thanh Sơn tiến hành định giá đối với giá trị kính chắn gió phía trước xe ô tô và công thay thế kinh chắn gió đó. Kết quả định giá thể hiện: Tổng giá trị tài sản định giá là 4.633.500 đồng (Bốn triệu sáu trăm ba mươi ba nghìn năm trăm đồng).

Ngày 12/11/2021 Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Sơn ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và ra Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Hà Văn N về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự để tiến hành điều tra theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Hà Văn N đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với những tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều tra đã thu thập được.

Bị hại anh Ôn Văn S yêu cầu bị cáo N phải bồi thường dân sự với số tiền: 47.100.000đồng (Bốn mươi bảy triệu một trăm ngàn đồng) bao gồm: Chi phí sửa xe, tiền công đi lại, tiền bồi thường trong thời gian xe ô tô của anh S bị hư hỏng không đi làm được. Anh S không có tài liệu gì để cung cấp cho Tòa án.

Tại bản cáo trạng số: 12/CT-VKSThS ngày 26/01/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn truy tố đối với bị cáo Hà Văn N về tội "Cố ý làm hư hỏng tài sản” được quy định tại khoản 1 điều 178 Bộ luật hình sự. Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố về hành vi phạm tội của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Khoản 1 Điều 178, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng cải tạo không giam giữ, bị cáo được khấu trừ 28 ngày bị tạm giam (từ ngày 12/11/2021 đến ngày 09/12/2021) quy đổi thành 02 tháng 24 ngày cải tạo không giam giữ. Khấu trừ từ 5% đến 10% thu nhập thực tế của bị cáo.

Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hà Văn N.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) con dao bài (loại dao đi làm đồi, có vỏ bằng gỗ bọc bên ngoài, chiều dài khoảng 40,5cm, chuôi dao bằng gỗ dài 12cm, đường kính chuôi dao khoảng 3cm, lưỡi dao bằng kim loại, gáy dao bằng, lưỡi sắc, bản rộng nhất của lưỡi dao khoảng 07cm, đầu dao bằng, có đục 01 lỗ tròn đường kính 32mm, một đầu ống nhựa được gắn vào chuôi dao, đầu còn lại gắn một đoạn gỗ cứng bên trong ống nhựa), là vật chứng vụ án không có giá trị sử dụng.

Xác nhận Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Sơn đã trả lại xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Getz, màu xanh BKS 29A-908.30 cho anh Ôn Văn S và các giấy tờ xe theo biên bản trả lại tài sản ngày 14/12/2021 là phù hợp.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Hà Văn N phải bồi thường giá trị tài sản thực tế bị thiệt hại theo như kết quả định giá tài sản là 4.633.500đồng (Bốn triệu, sáu trăm ba mươi ba nghìn, năm trăm đồng) và tự nguyện bồi thường thêm cho anh Ôn Văn S số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Xác nhận bị cáo N đã nộp tiền bồi thường tại Cơ quan thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn số tiền là 4.633.500đồng.

Không chấp nhận yêu cầu của anh S về việc yêu cầu bị cáo N bồi thường dân sự với số tiền: 47.100.000đồng (Bốn mươi bảy triệu một trăm ngàn đồng) bao gồm: chi phí sửa xe, tiền công đi lại, tiền bồi thường trong thời gian xe ô tô của anh S bị hư hỏng không đi làm được. Vì anh S không có tài liệu, chứng cứ chứng minh về việc yêu cầu bồi thường.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm. Anh Sáu phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Hà Văn N - ông Bùi Đức D, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Phú Thọ trình bày: Bị cáo N sinh ra và lớn lên trong gia đình cơ bản, do bị cáo còn ít tuổi chưa va chạm với cuộc sống, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng kinh tế khó khăn, trình độ hiểu biết về pháp luật còn ít, do tuổi trẻ suy nghĩ chưa chín chắn, hành động bồng bột, nhất thời chưa làm chủ bản thân, muốn thể hiện bản thân nên dẫn đến vi phạm pháp luật. Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải, mặc dù phía bị hại không đồng ý nhưng bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền bồi thường la 4.633.500đ tại cơ quan Thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để bị cáo lấy đó làm bài học cho bản thân, sống có ích cho gia đình xã hội. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo Hà Văn N, vì bị cáo chưa có gia đình vẫn ở chung, sống phụ thuộc gia đình.

Bị cáo Hà Văn N không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo Hà Văn N nói lời sau cùng: Bị cáo xác định hành vi của mình là trái quy định của pháp luật, bị cáo rất ân hận. Bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất và miễn phạt tiền đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác; Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại, người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung vụ án: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 20/9/2021 tại đường bê tông thuộc xóm Rịa 1, xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ do mâu thuẫn cá nhân Hà Văn N đã có hành vi dùng chuôi dao bằng gỗ đập vào góc trên bên trái kính chắn gió phía trước xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Getz, màu xanh BKS 29A-908.30 của anh Ôn Văn S làm vỡ kính chắn gió phía trước của xe ô tô thiệt hại giá trị là 4.633.500đồng (Bốn triệu, sáu trăm ba mươi ba nghìn, năm trăm đồng). Hành vi phạm tội của Hà Văn N đã được Cơ quan điều tra chứng minh, làm rõ, thu giữ đầy đủ vật chứng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.

Tại khoản 1 Điều 178 của Bộ luật Hình sự quy định:

1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”

[3]. Về tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo Hà Văn N là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn làm ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Tại thời điểm phạm tội bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Do đó, cần phải có hình phạt phù hợp để răn đe, giáo dục đối với bị cáo nói riêng cũng như đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4]. Về nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Hà Văn N có nhân thân tốt, bản thân chưa có tiền án, tiền sự; có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo N đã tự nguyện nộp tiền bồi thường cho bị hại tại Cơ quan thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn số tiền là 4.633.500đồng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo. Sau khi xem xét nhân thân, đối chiếu với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ dưới sự giám sát giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình cũng đủ để bị cáo cải tạo trở thành người công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn là phù hợp. Bị cáo được khấu trừ thời hạn tạm giam.

Theo quy định tại khoản 3 điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015 thì bị cáo Hà Văn N bị phạt cải tạo không giam giữ còn phải bị khấu trừ một khoản thu nhập từ 5% đến 20% để sung công quỹ nhà nước. Xét thấy bị cáo là người đã thành niên, có sức lao động nhưng bị cáo làm nghề tự do, thu nhập không ổn định vì vậy cần khấu trừ thu nhập của bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ là 10% theo mức lương tối thiểu là 1.490.000đ/tháng để sung công quỹ nhà nước là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 178 Bộ luật hình sự thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Hội đồng xét xử nhận thấy theo biên bản xác minh về tình trạng kinh tế và qua lời khai của bị cáo tại phiên tòa thì bị cáo sống cùng bố mẹ không có tài sản riêng, bị cáo làm nghề tự do, thu nhập không ổn định. Vì vậy miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đôi vơi bi cao.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Hà Văn N tự nguyện bồi thường giá trị tài sản bị thiệt hại theo kết luận định giá tài sản là 4.633.500đồng (Bốn triệu, sáu trăm ba mươi ba nghìn, năm trăm đồng) cho anh Ôn Văn S. Bị cáo tự nguyện bồi thường thêm cho anh S số tiền 2.000.000đ. Tổng số tiền bị cáo bồi thường cho anh S là 6.633.500đ (Sáu triệu sáu trăm ba mươi ba nghìn năm trăm đồng). HĐXX xét thấy số tiền bị cáo tự nguyện bồi thường cho bị hại là phù hợp nên chấp nhận.

Đối với yêu cầu của anh S về việc yêu cầu bị cáo N phải bồi thường thiệt hại với số tiền: 47.100.000đồng (Bốn mươi bảy triệu, một trăm nghìn đồng) bao gồm: Chi phí sửa xe, tiền công đi lại, tiền bồi thường trong thời gian xe ô tô của anh S bị hư hỏng không đi làm được. Hội đồng xét xử xét thấy việc anh S yêu cầu bị cáo N bồi thường thiệt hại số tiền 47.100.000đồng (Bốn mươi bảy triệu, một trăm nghìn đồng) là không có căn cứ, không đúng với thực tế, bởi vì trong suốt quá trình làm việc và tại phiên tòa hôm nay anh S không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh yêu cầu bồi thường của mình. Vì vậy yêu cầu của anh S không được Hội đồng xét xử xét chấp nhận.

[7]. Về vật chứng của vụ án:

Đối với: 01 (một) con dao bài, loại dao đi làm đồi, có vỏ bằng gỗ bọc bên ngoài, chiều dài khoảng 40,5cm, chuôi dao bằng gỗ dài 12cm, đường kính chuôi dao khoảng 3cm, lưỡi dao bằng kim loại, gáy dao bằng, lưỡi sắc, bản rộng nhất của lưỡi dao khoảng 07cm, đầu dao bằng, có đục 01 lỗ tròn đường kính 32mm, một đầu ống nhựa được gắn vào chuôi dao, đầu còn lại gắn một đoạn gỗ cứng bên trong ống nhựa, là vật chứng vụ án không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Xác nhận Cơ quan CSĐT - Công an huyện Thanh Sơn đã trả lại xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Getz, màu xanh BKS 29A-908.30 và các giấy tờ xe cho anh Ôn Văn S theo biên bản trả lại tài sản ngày 14/12/2021 là phù hợp với pháp luật.

[8]. Đối với Hà Văn Chuyền và chiếc xe mô tô của Chuyền (Bị cáo N không nhớ Biển kiểm soát): Ngay sau khi đi cùng N có hành vi làm hư hỏng tài sản Chuyền đã điều khiển xe bỏ đi khỏi địa phương, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án chưa có đủ căn cứ xác định Chuyền có hành vi đồng phạm về việc cố ý làm hư hỏng tài sản hay không. Đến nay Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Sơn chưa triệu tập làm việc được với Chuyền. Do đó Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Sơn tiếp tục triệu tập khi nào làm việc được với Chuyền sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

[9]. Về án phí: Bị cáo Hà Văn N phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Anh Ôn Văn S phải chịu án phí dân sự đối với yêu cầu không được chấp nhận.

[10]. Quyền kháng cáo: Những người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng và hình phạt: Khoản 1 Điều 178, Điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 - Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Hà Văn N phạm tội "Cố ý làm hư hỏng tài sản".

Xử phạt: Bị cáo Hà Văn N 09 (Chín) tháng cải tạo không giam giữ, bị cáo được khấu trừ 28 ngày bị tạm giam (từ ngày 12/11/2021 đến ngày 09/12/2021) quy đổi thành 02 tháng 24 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Hà Văn N cho UBND xã Võ Miếu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ giám sát, giáo dục. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Trong trường hợp bị cáo Hà Văn N thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo đúng quy định về thi hành án phạt cải tạo không giam giữ của Luật thi hành án hình sự.

Khấu trừ thu nhập của bị cáo Hà Văn N số tiền là 10% thu nhập của bị cáo tính theo mức lương tối thiểu là 1.490.000đ. Cụ thể là 1.490.000đ x 10% = 149.000đ (Một trăm bốn mươi chín nghìn đồng)/01 tháng trong thời gian cải tạo không giam giữ để sung công quỹ nhà nước.

Trường hợp bị cáo không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong một tuần.

Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại luật thi hành án hình sự.

Hình phạt bổ sung: Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hà Văn N.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào các Điều 584, Điều 585, Điều 586 và Điều 589 của Bộ luật dân sự.

Bị cáo Hà Văn N tự nguyện bồi thường cho anh Ôn Văn S số tiền là 6.633.500đ (Sáu triệu sáu trăm ba mươi ba nghìn năm trăm đồng). Trong đó: Giá trị tài sản bị thiệt hại là 4.633.500 đồng (Bốn triệu, sáu trăm ba mươi ba nghìn, năm trăm đồng) và 2.000.000đ (Hai triệu đồng) tiền chi phí đi lại trong thời gian sửa chữa tài sản bị hư hỏng.

Xác nhận bị cáo Hà Văn N đã tự nguyện nộp số tiền bồi thường cho anh Ôn Văn S là 4.633.500 đồng (Bốn triệu, sáu trăm ba mươi ba nghìn, năm trăm đồng) theo biên lai số: AA/2020/0004577 ngày 08/3/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn. Nay bị cáo N phải bồi thường cho anh S số tiền còn lại là: 2.000.000đ (Hai triệu đồng).

Kể từ khi án có hiệu lực pháp luật hoặc từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án thì bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại Khoản 2 Điều 468 - Bộ luật dân sự 2015.

3. Về xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng: điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao bài, loại dao đi làm đồi, có vỏ bằng gỗ bọc bên ngoài, chiều dài khoảng 40,5cm, chuôi dao bằng gỗ dài 12cm, đường kính chuôi dao khoảng 3cm, lưỡi dao bằng kim loại, gáy dao bằng, lưỡi sắc, bản rộng nhất của lưỡi dao khoảng 07cm, đầu dao bằng, có đục 01 lỗ tròn đường kính 32mm, một đầu ống nhựa được gắn vào chuôi dao, đầu còn lại gắn một đoạn gỗ cứng bên trong ống nhựa.

Xác nhận Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Sơn đã trả lại xe ô tô nhãn hiệu Huyndai Getz, màu xanh BKS 29A-908.30 và các giấy tờ xe cho anh Ôn Văn S là phù hợp.

Vật chứng đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra bàn giao cho cơ quan Thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 08/02/2022.

4. Về án phí:

Căn cứ: Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Hà Văn N phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hình sự.

Buộc anh Ôn Văn S phải nộp 2.023.000đ (Hai triệu không trăm hai mươi ba nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, người bị hại có mặt được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý làm hư hỏng tài sản số 14/2022/HS-ST

Số hiệu:14/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;