Bản án về tội cố ý gây thương tích số 72/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 72/2021/HS-ST NGÀY 20/08/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 20 tháng 8 năm 2021, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 74/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2021/QĐXXST- HS ngày 05 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo: Họ và tên: Phạm Trung K, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 26/9/1975, tại huyện B, tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú:  phường Q, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Đức V và bà Đặng Thị T; Có vợ là Đoàn Thị H và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

Hiện tại ngoại tại nơi cư trú. Vắng mặt, (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Trung K: Luật sư Lãnh Thị Mai H, thuộc Công ty Luật TNHH M chi nhánh Quảng Ninh - Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ninh; Địa chỉ:  phường T, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt.

* Bị hại: Anh Đoàn Hùng C, sinh năm: 1979; Địa chỉ:phường Q, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt, (có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Những người làm chứng:

- Chị Nguyễn Thị H, Sinh năm: 1990; Địa chỉ: phường Q, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

- Anh Nguyễn Thanh H, sinh năm: 1995; Địa chỉ: phường Q, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

- Bà Hoàng Thị L, sinh năm: 1962; Địa chỉ:  phường Q, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

- Anh Bổ Xuân T, sinh năm: 1972; Địa chỉ:  phường Q, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

- Chị Vũ Thị T, sinh năm: 1986; Địa chỉ:  phường Q, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Trung K và anh Đoàn Hùng C, sinh năm 1979, trú tại tổ 44B, khu 12, phường Q, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh là hàng xóm, cổng nhà đối diện nhau, hai người thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi chửi nhau. Khoảng 10 giờ ngày 24/3/2021, anh C đang đứng trước cổng nhà, K đứng ở cổng nhà mình thì tiếp tục cãi nhau. Anh C cầm 01 viên gạch còn K cầm 01 thanh kim loại dạng ống dài 01m, đường kính 03cm để thách thức đánh nhau. Sau đó, anh C cầm viên gạch trên tay ném về phía K nhưng không trúng. K cầm thanh kim loại trên tay phải chạy sang phía anh C vụt nhiều nhát vào người anh C. Anh C giơ tay đỡ thì bị K đánh gây thương tích ở tay trái. Thấy anh C bị đánh, chị Nguyễn Thị H (vợ anh C) cầm gậy ra thì K bỏ chạy về nhà, sau đó chị H đưa anh C đi cấp cứu tại bệnh viện V.

Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 321/21/TgT ngày 11/5/2021 của Trung tâm pháp y, Sở Y tế Quảng Ninh đối với anh Đoàn Hùng C kết luận: Chấn thương cẳng tay trái tổn thương như sau: Gãy 1/3 trên xương trụ trái đã được phẫu thuật kết hợp xương bằng nẹp vít, hiện tại xương đang can, không di lệch:

08%; Trật khớp quay – trụ trái đã được kéo nắn đưa khớp quay trụ về vị trí giải phẫu: 02%; Sẹo vết mổ 1/3 trên mặt sau cẳng tay trái kích thước (14 x 0,2)cm; sẹo dẫn lưu 1/3 trên mặt sau cẳng tay trái kích thước (0,3 x 0,3)cm: 02% + 01%. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 13%. Tổn thương nêu trên do vật tày tác động trực tiếp gây nên. Thanh kim loại màu trắng dạng ống trụ tròn, kích thước dài 01m, đường kính 03cm hoàn toàn có thể gây nên thương tích ở tay trái đối với anh Đoàn Hùng C.

Tại Cáo trạng số 06/CT-VKSUB ngày 04/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Phạm Trung K vắng mặt tại phiên tòa nhưng lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra như sau: Do đã có mâu thuẫn từ trước nên khi cả hai cãi chửi nhau, anh Đoàn Hùng C cầm gạch ném vào bị cáo nên bị cáo mới tức giận cầm cán ô bằng kim loại để đánh và gây thương tích cho anh C. Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố.

Bị hại anh Đoàn Hùng C vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai thể hiện đúng như nội dung vụ án. Tại đơn xin xét xử vắng mặt, anh C cho biết đã nhận được tiền bồi thường thiệt hại về sức khỏe và tinh thần từ phía bị cáo và anh C không có ý kiến gì về việc bồi thường dân sự.

Nhng người làm chứng chị Nguyễn Thị H, anh Nguyễn Thanh H, bà Hoàng Thị L, anh Bổ Xuân T, chị Vũ Thị T đều vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ phù hợp nội dung vụ án.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt chính: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điêu 65 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 tháng đến 60 tháng kể từ ngày tuyên án.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điu 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu tiêu hủy 01 thanh kim loại dạng ống trụ tròn, màu trắng sáng, dài 01m, đường kính 03cm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Phạm Trung K nhất trí với tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo. Tuy nhiên luật sư đề nghị HĐXX xem xét các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo: đã bồi thường khắc phục hậu quả, bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, mặt khác cũng do một phần lỗi của bị hại đã có hành động ném gạch vào người bị cáo, tuy không trúng vào người nhưng cũng kích động bị cáo mới dẫn đến việc phạm tội, từ đó xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng: Những chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị cáo, bị hại vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ điểm c khoản 2 Điều 290; khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo.

[2] Về tội danh và hình phạt:

Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của người bị hại, những người làm chứng, Kết luận giám định pháp y về thương tích số 321/21/TgT ngày 11/5/2020 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Quảng Ninh và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ ngày 24/3/2021, tại tổ 44B, khu 12, phường Q, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, do mâu thuẫn trong sinh hoạt, Phạm Trung K đã có hành vi dùng 01 chiếc gậy kim loại dạng ống trụ tròn, kích thước dài 01m, đường kính 03cm đánh anh Đoàn Hùng C gây thương tích 13%.

Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Về hình phạt:

Hình phạt chính:

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của người khác. Bị cáo là người trưởng thành, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi một cách cố ý. Vì vậy, cần phải có hình phạt nhất định đối với bị cáo để lấy đó làm bài học giáo dục riêng cũng như phòng ngừa tội phạm chung.

* Tình tiết tăng nặng: Không có.

* Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo đã bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Ngoài ra cũng xét nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo một phần do lỗi của bị hại, trước đó bị cáo và bị hại đã có mâu thuẫn, từ việc hai người cãi chửi nhau, bị hại cầm viên gạch ném về phía bị cáo, tuy không trúng người nhưng hành động đó của bị hại cũng làm cho bị cáo bị ức chế, không kìm chế được lý trí dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo. Mặt khác, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng, bản thân bị cáo là người có nhân thân tốt, được chính quyền địa phương nơi cư trú xác nhận. Do đó không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội mà cho bị cáo chp hành hình phạt tù cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách. Việc này không làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự xã hội và phù hợp với hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về biện pháp ngăn chặn: Bị cáo được hưởng án treo nên căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự, hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra bị cáo đã bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho anh Đoàn Hùng C số tiền là 150.000.000đ, anh C đã nhận tiền bồi thường và không có ý kiến gì về phần trách nhiệm dân sự nên HĐXX không đề cập giải quyết.

[5] Về vật chứng của vụ án: 01 thanh kim loại dạng ống trụ tròn, màu trắng sáng, dài 01m, đường kính 03cm là công cụ phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134 (thuộc trường hợp điểm a khoản 1 Điều 134); điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Trung K phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Trung K 24 (Hai mươi bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (Bốn mươi tám) tháng kể từ ngày tuyên án ngày 20 tháng 8 năm 2021.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường Q, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, nơi bị cáo cư trú, để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Hy biện pháp ngăn chặn theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 27 ngày 13/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đối với bị cáo Phạm Trung K.

2. Về vật chứng của vụ án:

Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tch thu, tiêu hủy 01 thanh kim loại dạng ống trụ tròn, màu trắng sáng, dài 01m, đường kính 03cm.

(Tình trạng, đặc điểm của vật chứng được mô tả tại Biên bản giao nhận vật ngày 06 tháng 8 năm 2021 giữa Công an thành phố Uông Bí và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh).

3. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23, danh mục án phí Toà án của Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Phạm Trung K phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo, bị hại váng mặt tại phiên tòa, báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

333
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 72/2021/HS-ST

Số hiệu:72/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;