TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 70/2021/HSST NGÀY 28/04/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 28 tháng 4 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 37/2021/TLST - HS ngày 04 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Trọng H (Tên gọi khác: Đồng), sinh năm 1992 tại Ninh Thuận. Nơi cư trú: Khu phố A, phường PH, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: Thợ sơn; Trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Tấn L, sinh năm 1960 và bà Hồ Thị Đ, sinh năm 1960. Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt từ ngày 15/9/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (có mặt)
2. Nguyễn Văn Th (Tên gọi khác: Nhí), sinh năm 2001 tại Ninh Thuận. Nơi cư trú: Khu phố B, phường K, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: Thợ sơn; Trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị Lan P, sinh năm 1969. Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân:
+ Ngày 26/9/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 12 tháng tù về “Tội cố ý gây thương tích”.
+ Ngày 25/01/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 15 tháng tù về “Tội cố ý gây thương tích”.
Bị cáo bị tạm giam trong vụ án khác. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (có mặt)
3. Phạm Quốc K(Tên gọi khác: Khánh Em), sinh năm 2001 tại Ninh Thuận. Nơi cư trú: Khu phố B, phường K, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: Thợ mộc; Trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Tuấn D, sinh năm 1975 và bà Đào Thị Xuân H, sinh năm 1978. Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân:
+ Ngày 26/9/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 12 tháng tù về “Tội cố ý gây thương tích”.
+ Ngày 25/01/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Ninh Thuận xử phạt 15 tháng tù về “Tội cố ý gây thương tích”.
Bị cáo bị tạm giam trong vụ án khác. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (có mặt)
4. Nguyễn Ngọc B (Tên gọi khác: Tin), sinh năm 1982 tại Ninh Thuận. Nơi cư trú: Khu phố X, phường K, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: Thợ sơn; Trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn M (chết) và bà Nguyễn Thị Bích E, sinh năm 1951. Vợ Dương Thị Thanh L, sinh năm 1989 và có 03 con (lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2016). Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt)
5. Ngô Văn T, sinh năm 1996 tại Ninh Thuận. Nơi cư trú: Khu phố Y, phường K, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ngô Văn T, sinh năm 1974 và bà Nguyễn Thị Bạch M, sinh năm 1978. Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt từ ngày 15/9/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (có mặt)
* Bị hại: Ông Lê Nguyễn Trường G, sinh năm 1994. Trú tại: Khu phố Z, phường T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (có mặt)
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Ông Nguyễn Tấn L, sinh năm 1960. Trú tại: Khu phố A, phường PH, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. (có mặt)
2. Bà Nguyễn Thị Lan P, sinh năm 1969. Trú tại: Khu phố B, phường K, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận, tỉnh Ninh Thuận. (có mặt)
3. Bà Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1968. Trú tại: Khu phố Z, phường M, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (mẹ ruột của Lê Thanh R hiện đang bị truy nã) (có đơn xét xử vắng mặt)
4. Bà Đào Thị Xuân H, sinh năm 1978. Trú tại: Khu phố B, phường K, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. (có mặt)
5. Bà Nguyễn Thị Bạch M, sinh năm 1978. Trú tại: Khu phố Y, phường K, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. (có mặt)
* Người làm chứng:
1. Anh Đinh Tuấn Kh, sinh năm 1994. Trú tại: Khu phố H, phường T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. (vắng mặt)
2. Anh Trần Mai Thái Ph, sinh năm 1990. Trú tại: Khu phố J, phường T, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ ngày 27/01/2020, Nguyễn Trọng H đến quán cà phê Ken ở khu phố J, phường T, thành phố P để uống cà phê thì xảy ra mâu thuẫn, xô xát với anh Đinh Tuấn Kh (sinh năm: 1994, trú tại: Khu phố H, phường T) là bạn của anh Lê Nguyễn Trường G (sinh năm: 1994, trú tại Khu phố Z, phường T, thành phố P) về việc đậu đỗ xe nên H gọi điện thoại cho Ngô Văn T nhờ đưa về. Do T chưa đến kịp nên H điều khiển xe mô tô chạy về, trên đường đi thì H gặp T nên rủ T về từ đường Họ Diệp ở phường K. Tại đây, H kể lại toàn bộ sự việc đã xảy ra tại quán cà phê Ken cho Nguyễn Ngọc B, Ngô Văn T, Lê Thanh R, Nguyễn Văn Th, Phạm Quốc K nghe, đồng thời H nói muốn tìm người đã đánh mình để trả thù. Lúc này, R vào từ đường Họ Diệp lấy hung khí, R mang theo 01 cây dao tự chế, cán và lưỡi bằng kim loại, dài khoảng 80cm; K, Th mỗi người mang theo 01 cây mác tự chế, cán và lưỡi bằng kim loại, dài khoảng 1,4m. H điều khiển xe mô tô, hiệu Wave, màu trắng (Không rõ biển số) chở R; T điều khiển xe mô tô, hiệu Honda Airbale, màu bạc đen, 85B1-699.80 chở K, Th rồi cả nhóm cùng nhau ra quán cà phê Ken. Đến nơi, R, K, Th, H, T để xe mô tô, đứng chờ ở khu vực đất trống đối diện quán cà phê Ken. H đến trước quán cà phê Ken để kiểm tra xem nhóm thanh niên đã đánh mình còn hay không thì nhìn thấy anh Kh, anh G và một số người bạn vẫn còn đang ngồi bên trong quán nên H kêu cả nhóm tiếp tục chờ. Nghĩ rằng nhóm của anh G là người đã đánh H nên khi nhìn thấy anh G và một số người bạn ra về, H nói “Đó, mấy thằng này đánh anh nè”, một số người bạn của anh G sợ bị đánh nên điều khiển xe mô tô chạy trước, riêng anh G chạy bộ một mình về hướng khu K1. Lúc này, B điều khiển xe mô tô, màu đen trắng, hiệu Sirius, biển số: 85B1-532.43 đến quán cà phê Ken. Nhìn thấy anh G bỏ chạy, B nhặt 01 cục đá ném về phía anh G nhưng không trúng. H, T, R, Th, K rượt đuổi theo anh G, R đuổi kịp cầm dao tay phải chém 01 nhát trúng lưng anh G gây thương tích nhưng anh G vẫn tiếp tục bỏ chạy. Khi đến gần khu công trình Hacom, B điều khiển xe mô tô chặn anh G lại, R chạy đến cầm dao chém 01 nhát trúng lưng anh G rồi tiếp tục chém nhát thứ 02 thì anh G đưa tay lên đỡ nên trúng bàn tay phải gây thương tích. Lúc này, K, Th chạy đến chỗ anh G, K cầm cây mác chém 01 nhát trúng lưng anh G, Th cầm cây mác chém 01 nhát trúng cánh tay trái anh G gây thương tích. Nhìn thấy anh G bị đánh, bảo vệ công trình đến can ngăn, lúc này H, T chạy đến chỗ anh G. Thấy anh G bị thương tích nên nhóm H không đánh nữa. Sau đó, B điều khiển xe mô tô chở R; T điều khiển xe mô tô chở K, Th; H điều khiển xe mô chạy một mình về từ đường Họ Diệp, anh G được mọi người đưa đi Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận để cấp cứu. Trên đường về, K, Th đã vứt bỏ hung khí.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 41/TgT ngày 22/4/2020 của Trung tâm giám định y khoa - pháp y tỉnh Ninh Thuận kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Lê Nguyễn Trường G do thương tích gây nên hiện tại là 27%. Vết thương được thể hiện như sau:
Vết thương ngang mặt sau 1/3 giữa cánh tay trái sẹo liền tốt phẳng kích thước (10,5x0,5)cm, vận động cánh tay trái bình thường (03%); Bả vai trái có vết thương sẹo liền tốt phẳng kích thước (1x0,2)cm, vận động khớp vai bình thường (01%); Vùng lưng trái có vết thương sẹo liền tốt phẳng mờ kích thước (14x0,1)cm (03%); Vết thương lưng phải sẹo liền phẳng mềm kích thước (7x0,2)cm, hít thở bình thường (03%); Vết thương trùng vết mổ lòng bàn tay phải sẹo liền tốt phẳng kích thước (13x0,4)cm, vận động cầm nắm các ngón tay còn hạn chế (03%). Xquang: Không thấy tổn thương xương cánh tay trái; Không thấy tổn thương xương lồng ngực, bóng tim phổi bình thường; Gãy chỏm xương bàn III bàn tay phải (06%). Điện cơ thần kinh: Tổn thương thành phần cảm giác của dây thần kinh giữa tay phải (11%). Cơ chế hình thành vết thương là do vật sắc gây nên.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Cáo trạng số 43/CT-VKSPRTC ngày 03 tháng 3 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm đã truy tố các bị cáo Nguyễn Trọng H, Nguyễn Văn Th, Phạm Quốc K, Nguyễn Ngọc B, Ngô Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 (điểm a, i khoản 1) Điều 134 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng điểm đ khoản 2 (điểm a, i khoản 1) Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng H từ 18 tháng – 24 tháng tù, bị cáo Nguyễn Văn T từ 18 tháng – 24 tháng tù, bị cáo Phạm Quốc K từ 18 tháng – 24 tháng tù, bị cáo Nguyễn Ngọc B từ 18 tháng – 24 tháng tù; bị cáo Ngô Văn T từ 15 tháng – 18 tháng tù.
- Về dân sự: Công nhận sự thỏa thuận giữa anh Lê Nguyễn Trường G và Nguyễn Trọng H, Nguyễn Văn Th, Phạm Quốc K, Nguyễn Ngọc B, Ngô Văn T.
Buộc các bị cáo phải có nghĩa vụ liên đới bồi thường cho anh G số tiền còn lại là 23.303.935 đồng.
Bị hại anh Lê Nguyễn Trường G trình bày: Tại phiên tòa hôm nay, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận giữa bị hại và các bị cáo về trách nhiệm dân sự, yêu cầu các bị cáo tiếp tục bồi thường số tiền còn lại là 23.303.935 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Nguyễn Tấn L trình bày: Ông là cha ruột của bị cáo Nguyễn Trọng H; sau khi xảy ra sự việc thì H cũng đã tác động gia đình bồi thường số tiền 2.000.000 đồng cho anh G. Số tiền này là tiền riêng của H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị Lan P trình bày: Bà là mẹ ruột của bị cáo Nguyễn Văn Th; Th đã tác động gia đình bồi thường số tiền 1.000.000 đồng cho anh G; đây là số tiền mà Th đi làm dành dụm được.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Đào Thị Xuân H trình bày: Bà là mẹ ruột của Phạm Quốc K, số tiền 1.000.000 đồng mà K đã tác động gia đình bồi thường cho anh G là tiền riêng của K, do K đi làm mà có được.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị Bạch M trình bày: Bà là mẹ ruột của Ngô Văn T; sau khi sự việc xảy ra T nói với gia đình thay T bồi thường số tiền 2.000.000 đồng cho anh G. Số tiền này là tiền mà T tự kiếm được.
Các bị cáo, bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không tranh luận.
Các bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Trọng H, Nguyễn Văn Th, Phạm Quốc K, Nguyễn Ngọc B, Ngô Văn T đã thừa nhận: các bị cáo không có mâu thuẫn gì với Lê Nguyễn Trường G. Khi nghe H kể lại toàn bộ sự việc xảy ra mâu thuẫn, xô xát về việc đậu đỗ xe tại cà phê Ken (thuộc khu phố J, phường T, thành phố P), do thiếu suy nghĩ nên các bị cáo đã cùng nhau tham gia gây thương tích cho Lê Nguyễn Trường G. Cụ thể: H chở R mang theo 01 cây dao tự chế, cán và lưỡi bằng kim loại, dài khoảng 80cm; T chở K, Th mỗi người mang theo 01 cây mác tự chế, cán và lưỡi bằng kim loại, dài khoảng 1,4m đến quán cà phê Ken. Tại đây, B nhặt 01 cục đá ném về phía anh G nhưng không trúng. R đuổi theo cầm dao tay phải chém 01 nhát trúng lưng anh G. Khi đến gần khu công trình Hacom, B điều khiển xe mô tô chặn anh G lại, R chạy đến cầm dao chém 01 nhát trúng lưng anh G rồi tiếp tục chém nhát thứ 02 trúng bàn tay phải của anh G. K cầm cây mác chém 01 nhát trúng lưng anh G, Th cầm cây mác chém 01 nhát trúng cánh tay trái anh G gây thương tích. Như vậy, bị cáo K, Th là người thực hành, các bị cáo H, B, T là người giúp sức. Hậu quả Lê Nguyễn Trường G bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể hiện tại là 27%. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng trong vụ án. Vì vậy, Cáo trạng số 43/CT-VKSPRTC ngày 03 tháng 3 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm truy tố các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 (với các tình tiết định khung tăng nặng là dùng hung khí nguy hiểm và có tính chất côn đồ theo điểm a, i khoản 1) Điều 134 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, cần phải xử lý nghiêm khắc.
[3] Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, để có cơ sở quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc hành vi phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của từng bị cáo như sau:
- Đối với bị cáo Nguyễn Trọng H: là người khởi xướng các bị cáo khác tham gia gây thương tích và điều khiển xe mô tô chở R mang theo hung khí và cùng các bị cáo khác ra quán cà phê Ken tìm người đã đánh mình để trả thù. Bị cáo là người chỉ mặt anh Lê Nguyễn Trường G cho những bị cáo khác biết để đuổi đánh. Bị cáo phải chịu mức án cao hơn so với đồng phạm.
- Đối với bị cáo Nguyễn Văn Th, bị cáo Phạm Quốc K: các bị cáo là người trực tiếp dùng phần sóng của lưỡi cây mác tự chế, cán và lưỡi bằng kim loại, dài khoảng 1,4m gây thương tích cho bị hại; Cụ thể: Th chém 01 nhát trúng cánh tay trái của bị hại; K chém 01 nhát trúng vào vùng lưng của bị hại. Các bị cáo là người thực hiện hành vi phạm tội tích cực. Bị cáo Th và K đều có nhân thân xấu.
Vì vậy, bị cáo Th, K phải chịu mức hình phạt ngang bằng với bị cáo H.
- Đối với bị cáo Nguyễn Ngọc B: Khi thấy bị hại từ quán cà phê Ken đi ra, bị cáo đã dùng đá ném về phía bị hại nhưng không trúng. Sau đó, bị cáo dùng xe mô tô đuổi theo và chặn đầu bị hại lúc này R, Th, K chạy đến gây thương tích cho bị hại. Vai trò của bị cáo hạn chế hơn so với các bị cáo H, Th, K nên bị cáo chịu mức án thấp hơn.
- Đối với Ngô Văn T: Khi nghe H kể lại sự việc thì bị cáo đồng ý và cùng tham gia; bị cáo đã điều khiển xe mô tô chở Th, K đến quán cà phê Ken. Bị cáo có tham gia đuổi đánh anh G nhưng không gây thương tích cho bị hại. Vai trò của bị cáo hạn chế nhất trong vụ án nên bị cáo chịu mức án thấp nhất.
Các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình bồi thường cho bị hại và bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; Riêng bị cáo H có cha là ông Nguyễn Tấn L được Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng ba và Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng ba; Bị cáo T có ông cố là Nguyễn Văn Ng được Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam tặng bằng “Tổ quốc ghi công”, bản thân bị cáo T được tặng danh hiệu Chiến sĩ tiên tiến trong thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự năm 2018; đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để xử phạt các bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Tại giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đồng ý bồi thường số tiền 32.303.935 đồng cho anh Lê Nguyễn Trường G. Anh G đã nhận bồi thường 9.000.000 đồng từ gia đình các bị cáo. Các bị cáo đồng ý tiếp tục bồi thường cho anh G số tiền còn lại là 23.303.935 đồng chia phần mỗi bị cáo là 4.661.000 đồng. Xét thấy, sự thỏa thuận này là tự nguyện, phù hợp pháp luật nên ghi nhận.
Đối với yêu cầu bồi thường chi phí mất thu nhập, điều trị thương tích phát sinh sau này, hiện chưa có chứng cứ để chứng minh do đó anh G sẽ yêu cầu bồi thường trong một vụ án dân sự khác khi có đầy đủ chứng cứ.
[5] Vật chứng của vụ án:
- Đối với 01 cây dao tự chế, cán và lưỡi bằng kim loại, dài khoảng 80 cm Lê Thanh R đã đem về từ đường Họ Diệp, thuộc phường K và 02 cây mác tự chế, cán và lưỡi bằng kim loại, dài khoảng 1,4m Nguyễn Văn Th, Phạm Quốc K đã vứt bỏ nhưng không nhớ rõ vị trí, Cơ quan điều tra chưa thu hồi được nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
- Đối với 01 xe mô tô, hiệu Honda Airbale, màu bạc đen, biển số: 85B1- 699.80; quá trình điều tra xác định chiếc xe thuộc sở hữu của anh Ngô Văn T1 (sinh năm: 1998, trú tại: Khu phố Y, phường K, thành phố P là em của Ngô Văn T), anh T1 không biết T sử dụng xe của mình để làm phương tiện đi gây thương tích cho người khác nên Cơ quan điều tra trao trả lại xe cho anh T1 là có căn cứ.
- Đối với xe mô tô, hiệu Wave, màu trắng (không rõ biển số) và 01 xe mô tô, màu đen trắng, hiệu Sirius, biển số 85B1-532.43, Nguyễn Ngọc B, Nguyễn Trọng H đã bán nhưng không biết rõ người mua Cơ quan diều tra chưa thu hồi được nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[6] Đối với Lê Thanh R sau khi phạm tội đã bỏ trốn, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định truy nã, Quyết định tách vụ án. Khi nào bắt được sẽ xử lý sau.
[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Trọng H (tên gọi khác: Đồng), Nguyễn Văn Th (tên gọi khác: Nhí), Phạm Quốc K (tên gọi khác: Khánh Em), Nguyễn Ngọc B (tên gọi khác: Tin), Ngô Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Căn cứ vào điểm đ khoản 2 (điểm a, i khoản 1) Điều 134; điể m b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng H (tên gọi khác: Đồng) 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/9/2020.
Căn cứ vào điểm đ khoản 2 (điểm a, i khoản 1) Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th (tên gọi khác: Nhí) 18 (mười tám) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
Căn cứ vào điểm đ khoản 2 (điểm a, i khoản 1) Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Phạm Quốc K (tên gọi khác: Khánh Em) 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
Căn cứ vào điểm đ khoản 2 (điểm a, i khoản 1) Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc B (tên gọi khác: Tin) 15 (mười lăm) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Căn cứ vào điểm đ khoản 2 (điểm a, i khoản 1) Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Ngô Văn T 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/9/2020.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 585, 586 và 590 Bộ luật Dân sự Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị hại với các bị cáo, cụ thể: các bị cáo Nguyễn Trọng H, Nguyễn Văn Th, Phạm Quốc K, Nguyễn Ngọc B, Ngô Văn T đồng ý tiếp tục bồi thường cho anh Lê Nguyễn Trường G số tiền còn lại là 23.303.935đ (Hai mươi ba triệu ba trăm lẻ ba nghìn chín trăm ba mươi lăm đồng), chia phần mỗi bị cáo là 4.661.000đ (bốn triệu sáu trăm sáu mươi mốt nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Mỗi bị cáo Nguyễn Trọng H, Nguyễn Văn Th, Phạm Quốc K, Nguyễn Ngọc B, Ngô Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Ng vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án./
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 70/2021/HSST
Số hiệu: | 70/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về