TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 65/2024/HS-PT NGÀY 25/04/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 25 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 264/2023/TLPT-HS ngày 22/12/2023 đối với bị cáo Nguyễn Văn N, do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn N, bị hại Nguyễn Văn C đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 130/2023/HS-ST ngày 14/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Đ.
* Bị cáo kháng cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn N; sinh năm: 1988; nơi sinh: Đ; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn 3, xã ML, huyện H, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Nguyễn Văn B và bà Hà Thị H; có vợ: Tô Thị L (đã ly hôn) và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại. Có mặt.
Người bào chữa: Luật sư Lê Hồng Th – Văn phòng Luật sư Lê Hồng Th; Đoàn Luật sư tỉnh Đ. Có mặt.
- Bị hại có kháng cáo: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm: 1976. Địa chỉ: thôn ML, Phường 7, thành phố Đà Lạt, tỉnh Đ. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 16 giờ ngày 30/12/2021, Nguyễn Văn N, sinh năm: 1988, nơi cú trú: Thôn 3, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ đi cùng vói bạn tên Nguyễn Thị Hoài Th, sinh năm: 1988, nơi cư trú: thôn Đông Anh, xã Đông Th, huyện H, tỉnh Đ đến Thôn 5, xã Mê Linh, huyện H tinh Đ gặp khách hàng để giao dịch mua bán đất. Sau khi gặp khách xong thì Nguyễn Văn N và Nguyễn Thị Hoài Th có đứng lại ở đường bê tông gần hồ câu cá thuộc Thôn 5, xã Mê Linh để đợi ông Nguyễn Văn C là chú ruột của Nguyễn Văn N đi làm về để hỏi chuyện về việc tại sao lại đe dọa khách đến mua đất của Nguyễn Văn N vì N biết ông C đang hái cà phê ở trên vườn. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày thì N nhìn thấy ông C điều khiển xe mô tô biển số: 4981-xxxx nhãn hiệu Citi, màu đỏ chở theo 01 bao cà phê ở phía sau từ trên vườn đi xuống đường bê tông. Thấy ông C thì Nguyễn Văn N dùng tay vẫy ông C lại, Nguyễn Văn N đứng trước đầu xe nói ông C xuống xe nói chuyện thì ông C đã dùng xe lại dựng chân chống rồi xuống xe đứng sát đầu xe mô tô, Nguyễn Văn N hỏi ông C: “Tại sao lại đe dọa chửi khách của cháu, đất chú bán cho cháu rồi sao lại không ký giáp ranh cho cháu bán đất”. Lúc này ông C cũng đứng trước đầu xe, đứng đối diện với Nguyễn Văn N cách khoảng gần 1m và nói “đất của tao, mày bán tao không ký giáp ranh mày làm gì được tao”. Lúc này N và ông C xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau qua lại thì ông C dùng tay phải tát vào mặt N hai cái thì N đẩy ông C ra và nói “ông vừa phải thôi”, rồi dùng tay phải đấm trúng vào vùng mặt ông C hai cái theo hướng từ ngoài vào trong, N và ông C tiếp tục giằng co nhau, N dùng tay túm cổ áo ông C đè xuống đường bê tông thì có va chạm vào chiếc xe mô tô của ông C đỗ xuống đường. Lúc này Nguyễn Thị Hoài Th đến can ngăn thì ông C bỏ chạy về hướng khu vực hồ câu cá, N nhìn thấy 01 khúc cây gỗ không biết loại gì dài khoảng 01m, đường kính khoảng 5-6cm đuổi theo ông C đễ đánh nhưng không trúng. Thấy N cầm gậy đuổi theo, thì ông C cầm 01 cây sắt dài khoảng 2m ở gần hồ câu quay lại để đánh N thì N lùi lại về phía Th rồi Th chở N về nhà. Hậu quả: Ông Nguyễn Văn C bị thương ở vùng mặt được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đ. Ngày 12/02/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H đã trưng cầu Trung tâm Pháp y tỉnh Đ giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông Nguyễn Văn C. Kết quả giám định như sau: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của Nguyễn Văn C là: 0% (không phần trăm). Ngày 13/6/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H đã trưng cầu Trung tâm Pháp y tỉnh Đ giám định bổ sung tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông Nguyễn Văn C phần mắt. Ngày 28/6/2022, Trung tâm Pháp y tỉnh Đ đã có công văn số 87/CV-PY về việc từ chối giám định. Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 161/TgT ngày 29/8/2022 của Viện pháp y quốc gia thành phố Hồ Chí Minh xác định: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thuơng tích gây nên tại thời điểm giám định của Nguyễn Văn C là: 41% (bốn mươi mốt phần trăm). Giảm thị lực mắt phải của nạn nhân là do chấn thương vào ngày 30/12/2021. Các vết sưng đau vùng đầu, mặt, mũi, mắt phải và cẳng tay trái là do vật tày tác động trực tiếp gây nên.
Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Văn C yêu cầu Nguyễn Văn N phải bồi thường 268.812.553 đồng.
Vật chứng thu giữ: 01 chiếc xe mô tô biển số 49S1 – xxxx, nhãn hiệu City, màu đỏ, số khung 1271450, số máy 1271502 thu giữ của ông C. Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho ông C.
Tại bản Cáo trạng số 127/CT - VKS ngày 03/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố Nguyễn Văn N về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 130/2023/HS-ST ngày 14/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện H đã xử;
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra, bản án còn giải quyết trách nhiệm dân sự, tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 14/10/2023, bị hại Nguyễn Văn C kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo.
Ngày 20/11/2023, bị cáo Nguyễn Văn N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi như bản án sơ thẩm đã xét xử; đồng thời giữ nguyên nội dung kháng cáo xin hưởng án treo và không cung cấp tình tiết giảm nhẹ nào mới. Mặt khác bị cáo còn cho rằng thương tích mắt của bị hại là do bệnh lý không phải bị cáo gây nên.
Bị hại không thắc mắc, khiếu nại nội dung bản án sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử tăng nặng hình phạt đối với bị cáo vì mức hình phạt chưa đủ sức răn đe.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, kháng cáo của bị hại; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị HĐXX xem xét kháng cáo của bị cáo, vì bị cáo phạm tội lần đầu, không có tình tiết tăng nặng, có nơi cư trú rõ ràng, đủ điều kiện áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự, nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cho bị cáo hưởng án treo. Tuy nhiên, mong Hội đồng xét xử xem xét thêm giấy chứng nhận thương tích của bị hại không có thương tích ở mắt, Kết luận giám định pháp y ở trên tỉnh Đ không có thương tích ở mắt, hồ sơ bệnh án ghi thêm điều trị thương tích ở mắt của bị hại C dẫn đến Kết luận giám định pháp y tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận mắt phải bị hại bị tỷ tổn thương là 41% nhưng không liên quan vì bị hại bị bệnh lý về mắt từ nhỏ, thể hiện mắt trái bị giảm thị lực là do bệnh lý gây nên, nên Luật sư đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại các thương tích về mắt của bị hại.
Bị cáo thống nhất lời bào chữa của Luật sư.
Bị hại không đồng ý với luận cứ bào chữa của Luật sư và cho rằng Luật sư vu khống, hồ sơ bệnh án bị hại không được tiếp cận, anh em gia đình bị hại có mâu thuẫn, nên không thể viết tờ đơn trình bày rồi quy kết bị hại bị bệnh lý về mắt từ nhỏ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Cơ quan tiến hành tố tụng tại giai đoạn sơ thẩm đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Đơn kháng cáo của bị cáo, bị hại đúng về hình thức, nội dung, trong hạn luật định nên kháng cáo của bị cáo, bị hại là hợp lệ, nên đủ cơ sở để Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[3] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi như bản án sơ thẩm quy kết. Xét lời khai nhận tội của bị cáo thống nhất với lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp với Kết luận giám định, tất cả các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Xuất phát từ việc mâu thuẫn trong mua bán đất, giáp ranh thửa đất giữa bị cáo Nguyễn Văn N và bị hại Nguyễn Văn C. Vào khoảng 16 giờ 30 phút 30/12/2021, tại đoạn đường bê tông thuộc thôn 5, xã Mê Linh, huyện H, tỉnh Đ, giữa bị cáo và ông Nguyễn Văn C xảy ra mâu thuẫn, cãi, chửi và xô xát nhau. Quá trình xô xát, bị cáo đã dùng tay đấm vào vùng mặt của ông Nguyễn Văn C. Hậu quả ông C bị thương tích ở mắt với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 41%.
Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử Nguyễn Văn N phạm tội “Cố ý gây thương tích”, theo điểm a khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Xét kháng cáo của bị cáo xin hưởng án treo, kháng cáo của bị hại đề nghị tăng mức hình phạt thấy rằng; Bản án sơ thẩm đã xem xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, tự nguyện nộp số tiền 140.000.000đ để khắc phục thiệt hại cho bị hại, quá trình sinh sống tại địa phương có tham gia tích cực các phong trào, đặc biệt là phòng chống dịch Covid - 19 được chính quyền địa phương xác nhận nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo, xử phạt bị cáo 24 tháng tù, mức khởi điểm của khung hình phạt là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo nhưng không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới, hiện nay tình trạng sử dụng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn gia tăng, trong vụ án này bị hại là chú ruột của bị cáo, nên việc cho bị cáo hưởng án treo sẽ không đảm bảo việc răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
Bị cáo cho rằng bản thân đấm vào vùng mặt của bị hại chứ không phải vào mắt và thương tích ở mắt là do bị hại bị bệnh lý. Hồ sơ vụ án thể hiện, sau khi bị đánh, bị hại đã điều trị tại Bệnh viện đa khoa Đ, sau đó tiếp tục điều trị mắt ở Thành phố Hồ Chí Minh. Xét thấy diễn biến điều trị của bị hại phù hợp với hồ sơ bệnh án, phù hợp với các kết luận giám định nên lời trình bày của bị cáo là không có căn cứ. Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng hồ sơ điều trị ghi thêm điều trị mắt của bị hại, không phù hợp với giấy chứng nhận thương tích. Tuy nhiên, quá trình điều tra, Cơ quan điều tra làm việc với bác sĩ Trần Nhật Duy và bác sĩ Nguyễn Thị Xuân Thành là người trực tiếp khám và điều trị cho bị hại Nguyễn Văn C đã xác nhận tình trạng thương tích ban đầu của bị hại Nguyễn Văn C “....sưng bầm 2 mắt, nhìn mờ mắt phải....bệnh nhân C được cấp thuốc kháng sinh, giảm đau. Sau khi xuất viện thì bác sĩ Duy có hướng dẫn bệnh nhân C khám, điều trị về mắt. Do ban đầu ghi thiếu trong giấy chứng nhận thương tích nên đã ghi bổ sung phần giấy chứng nhận thương tích số 351 cho phù hợp với thực tế”. Thương tích của bệnh nhân C bác sĩ Thành xác nhận: Bệnh nhân C có đến tái khám về mắt, do bệnh nhân bị tổn thương bệnh lý thị thần kinh sau chấn thương nên bác sĩ đã hướng dẫn bệnh nhân chuyển đến Bệnh viện mắt Thành phố Hồ Chí Minh để điều trị (bút lục số 60). Ngoài ra, Lãnh đạo Bệnh viện đa khoa Đ đã xác nhận tại Công văn số 810/BVĐK-KHTH ngày 10/5/2023 phù hợp với biên bản làm việc của bác sĩ Duy, bác sĩ Thành. Vì vậy, các ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo không có căn cứ chấp nhận.
Việc bị hại kháng cáo đề nghị tăng hình phạt thì xét thấy, bản án sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ, bị cáo không có tình tiết tăng nặng, xem xét nhân thân, tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội để xử phạt bị cáo là hoàn toàn phù hợp. Do vậy, không chấp nhận kháng cáo của bị hại đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, kháng cáo của bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn N, bị hại Nguyễn Văn C, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn N phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 65/2024/HS-PT về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 65/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về