TOÀ ÁN ND HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 58/2021/HSST NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 29/9/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 48/2021/TLST-HS ngày 26/8/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2021, đối với bị cáo:
Nguyễn Duy C, sinh ngày 07 tháng 11 năm 1983, tại: phường Đông Vệ, Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Lô 127 MBQH90, phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Duy S (đã chết) và bà Mai Thị H, sinh năm 1957; vợ: Trần Thị N, sinh năm 1985 (đã ly hôn); có 01 con: sinh năm 2005;
Tiền án: không;
Tiền sự: Năm 2019, bị TANDTP Thanh Hóa áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quyết định số 20/QĐ-CA, ngày 11/3/2019, thời hạn 20 tháng (từ ngày 31/01/2019 đến 30/9/2020);
Nhân thân:
- Ngày 25/8/2005, bị TANDTP Thanh Hóa xử phạt 42 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” tại bản án số 134/2005/HSST; đã chấp hành xong bản án;
- Ngày 23/11/2009, bị TANDTP Thanh Hóa xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 313/2009/HSST; đã chấp hành xong bản án;
- Ngày 17/02/2011, bị TAND thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 41/2011/HSST; đã chấp hành xong bản án;
- Ngày 06/01/2015, bị TANDTP Thanh Hóa xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 01/2015/HSST; ngày 15/10/2015 đã chấp hành xong hình phạt tù và phần dân sự của bản án.
Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
* Bị hại: Nguyễn Văn T - Sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn Ngoại 1, xã Nga G, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.(vắng mặt).
*Người làm chứng:
1/ Mai Văn H - Sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn Ngoại 1, xã Nga G, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; (vắng mặt).
2/ Nguyễn Văn Đ - Sinh năm: 1986; địa chỉ: Thôn Ngoại 1, xã Nga G, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung được tóm tắt như sau:
Khoảng 7h 30 phút, ngày 24/5/2021, Nguyễn Duy C điều khiển xe mô tô, nhãn hiệu Exciter, màu xanh từ xã Nga T lên quán ăn Chiến Thu (ở tiểu khu Yên Hạnh 1, thị trấn Nga Sơn) để ăn sáng. Khi đến nơi, C nhìn thấy anh Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Đ, Mai Văn H đang đi từ trong quán ăn ra.C nhớ lại ít ngày trước đó T có lời lẽ khiêu khích, thách thức đánh nhau nên C đã lấy khóa dây màu đỏ, bằng kim loại dài 40 đến 50cm, đầu khóa bằng sắt treo ở giá trước xe của mình, cầm trên tay trái đi lại gần T hỏi “mày thách thức tao phải không T”, rồi C dùng khóa dây vụt liên tiếp 3-4 phát về phía T. Sau đó, có một số người đến can ngăn nên C dừng tay và đi vào quán ăn sáng, còn các anh T, Đ, H đi về công ty TNHHH thương mại dịch vụ AT.
Sáng ngày 25/5/2021, do bị thương ở cẳng tay và vùng mông nên T đã đến Bệnh viện đa khoa huyện Nga Sơn khám và điều trị thương tích. Đồng thời, có đơn gửi Công an thị trấn để trình báo vụ việc và được chuyển đến Công an huyện Nga Sơn để giải quyết theo thẩm quyền.
Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể, ngày 25/5/2021 của anh Nguyễn Văn T, xác định: Vùng mặt sau 1/3 dưới cẳng tay phải có 01 vết xây xước da, kích thước (0,5 x 0,1) cm; vùng 1/4 trên ngoài mông phải có 01 vết sưng nề bầm tím, kích thước (6,5 x 3) cm.
Ngày 01/6/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nga Sơn ra quyết định số 51/CSĐT trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Nguyễn Văn T do Nguyễn Duy C dùng khóa dây bằng kim loại đánh.
Tại bản kết luận giám định pháp y thương tích số 358/2021/TTPY, ngày 08/6/2021 của Trung tâm pháp Y tỉnh Thanh Hóa, kết luận: Dấu hiệu chính qua giám định:
- Vết biến đổi rối loạn sắc tố da vùng đầu mặt sau 1/3 dưới cẳng tay phải: 1% (Thông tư 22/2019/TT-BYT, bảng 1, chương 8, mục V);
- Vết biến đổi rối loạn sắc tố da vùng ¼ trên ngoài mông phải: 1% (Thông tư 22/2019/TT-BYT, bảng 1, chương 8, mục V).
Tại thời điểm giám định pháp y về thương tích: Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với Nguyễn Văn T được tính theo phươngg pháp xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể (Điều 4, Thông tư 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Ytế) là 2% (Hai phần trăm).
Về trách nhiệm bồi thường: anh T chi phí cho việc khám chữa bệnh tại cơ sở y tế ngày 25/5/2021 là 246.830đ. (có hóa đơn), nhưng anh không yêu cầu bị cáo bồi thường gì.
Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện Nga Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Duy C theo cáo trạng số 54/CT- VKSNS- TA, ngày 24/8/2021 về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự và đề nghị HĐXX áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 134; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy C từ 06 đến 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu gì nên miễn xét.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận với VKS và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Duy C thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội: Xuất phát từ việc anh T có lời lẽ khiêu khích, thách thức C trước đó ít hôm nên ngày 24/5/2021, khi C gặp anh T tại quán ăn Chiến Thu. C đã có hành vi dùng khóa dây vụt liên tiếp 3-4 phát về phía T, gây thương tích vùng cẳng tay phải và vùng mông bên phải của anh T với tỷ lệ thương tích là 2%. Lời khai nhận tội phù hợp lời khai bị hại, người làm chứng, kết luận giám định thương tích và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
Hành vi của bị cáo C là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe cho anh Nguyễn Văn T. Bị cáo thực hiện hành vi gây thương tích cho bị hại đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Hành vi dùng chiếc khóa dây bằng kim loại vụt liên tiếp từ 03 đến 04 phát vào người bị hại là thể hiện thái độ xem thường pháp luật, tính mạng, sức khỏe người khác gây thương tích cho bị hại 2%. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 của BLHS như nội dung cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử (HĐXX) thấy rằng: đây là vụ án có tính chất ít nghiêm trọng. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu từng bị TAND Thành phố Thanh Hóa và TAND thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử về các tội danh “Cướp giật tài sản”; “Trộm cắp tài sản”. Ngoài ra, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tuy nhiên, bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại có hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo không chỉ gây tổn hại sức khỏe cho bị hại, còn gây mất trật tự an ninh tại địa phương.
[3] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về nhân thân: bị cáo có nhân thân xấu đã bị xét xử về các tội “Cướp giật tài sản”; “Trộm cắp tài sản”.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại không yêu bị cáo bồi thường nên miễn xét. [5] Về vật chứng vụ án: Chiếc khóa dây bằng kim loại, dài 40-50cm, có đầu khóa bằng sắt, bị cáo bỏ đâu không nhớ, Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn đã truy tìm nhưng không có kết quả nên không có cơ sở để xử lý theo quy định.
[6] Từ những căn cứ nêu trên, xét thấy cần áp dụng Điều 38 của BLHS để cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo thành công dân biết tôn trọng pháp luật.
[7] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
* Căn cứ vào: điểm a khoản 1 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 * Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Duy C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Duy C 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
* Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Duy C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.
Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 58/2021/HSST
Số hiệu: | 58/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về