TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 36/2021/HSST NGÀY 19/11/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 19 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 33/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2021/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:
Phạm Phú H, sinh năm 1994 tại tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Ấp TT, xã TD, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm vuông; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Phú T và bà Đinh Thị L; anh chị em ruột: 04 người; vợ: Trương Mỹ H; Con: 02 con; nhân thân: Ngày 21/11/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và tội “Hủy hoại tài sản”; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ ngày 19/02/2021 đến ngày 25/02/2021 chuyển sang tạm giam cho đến nay (có mặt).
- Bị hại: Anh Trương Bảo L, sinh năm 1993; nơi cư trú: Ấp TT, xã TD, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau. (có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Bà Đinh Thị L, sinh năm 1959; nơi cư trú tại: Ấp TT, xã TD, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau. (có mặt) - Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Chí H, sinh năm 1993; nơi cư trú: Ấp NN, xã TP, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau. (có mặt)
2. Anh Phan Hữu T, sinh năm 1988; nơi cư trú: Ấp TT, xã TD, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau. (có mặt)
3. Ông Phạm Minh K, sinh năm 1980; nơi cư trú: Ấp TT, xã TD, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chiều ngày 18/02/2021, bị cáo Phạm Phú H đi dự đám tang bác ruột, bị cáo có dùng rượu với một số người khác. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, anh Phạm Phú N là anh chú bác với bị cáo từ đám tang về ngang nhà anh Phạm Minh K ở ấp TT, xã TD, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau thì nghe thấy anh Phạm Vũ Trường G (tên gọi khác là V) đang đứng cập lộ nói chuyện với bạn có nhắc đến bị cáo, sợ anh V đi tìm bị cáo đánh nên sau khi về đến nhà anh N điện thoại kêu bị cáo đi về. Sau khi nghe anh N nói, bị cáo đến bàn để trái cây lấy 01 cây dao Thái Lan cán màu hồng, dài khoảng 20cm, mũi nhọn bỏ vào túi quần rồi điều khiển xe tìm anh V.
Khi đến nhà anh K, bị cáo đậu xe dưới dốc cầu trước nhà anh K rồi đi bộ vào trong sân. Thấy bị cáo đi vào, chị Nguyễn Bích P là vợ anh K đi ra hỏi thì bị cáo nói đến tìm anh G, chị P nói anh G không có ở đây nên bị cáo đi trở ra nhưng sau đó lại đi vào và có những lời lẽ thô tục. Anh K thấy vậy nên đi ra, cùng đi có anh Trương Bảo L, anh Nguyễn Chí H và anh Phan Hữu T. Lúc này, bị cáo đi trở ra đến chỗ đậu xe, còn anh K, anh L, anh H và anh T đi đến cầu, anh K nói không có anh V ở đây và kêu bị cáo đến nhà tìm anh V, bị cáo không đồng ý và cho rằng anh K che giấu anh V nên dùng lời lẽ thô tục chửi và đe dọa anh K. Thấy vậy, anh L từ trên cầu nhảy xuống, đồng thời đưa tay lên định đánh bị cáo thì bị cáo liền lấy cây dao từ trong túi quần ra đâm vào vùng hố chậu bên trái của anh L 01 cái gây thương tích, bị cáo tiếp tục quơ dao lên đe dọa những người đang có mặt rồi lên xe chạy đi, trong quá trình chạy đã làm mất cây dao. Đến sáng ngày 19/02/2021, bị cáo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đầm Dơi đầu thú và khai báo rõ hành vi của mình như trên.
Sau khi bị đâm, anh L được gia đình đưa đi đến Bệnh viện Đầm Dơi, rồi chuyển đến Bệnh viện đa khoa Cà Mau cấp cứu và điều trị thương tích cho đến ngày 02/3/2021 thì xuất viện.
Theo bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 87/TgT-21ngày 23/02/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Cà Mau thể hiện như sau:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- 01 vết thương vùng hố chậu trái, kích thước: 03cm x 0,1cm.
- 01 vết phẫu thuật đường trắng giữa từ rốn đến xương mu, kích thước: 14cm x 0,1cm. Khâu lỗ thủng mạc treo đại tràng sigma 02cm, thủng mạc treo hổng tràng 1,5cm và chột ở mạc treo hồi tràng.
- 01 vết (phẫu thuật) dẫn lưu hố chậu phải, kích thước: 1,5cm x 0,2cm.
2. Kết luận:
- 01 vết thương vùng hố chậu trái, kích thước: 03cm x 0,1cm. Tỷ lệ 01%. Do vật sắc hoặc vật sắc nhọn gây ra.
- 01 vết phẫu thuật đường trắng giữa từ rốn đến xương mu, kích thước: 14cm x 0,1cm. Khâu lỗ thủng mạc treo đại tràng sigma 02cm, thủng mạc treo hổng tràng 1,5cm và chột ở mạc treo hồi tràng. Tỷ lệ 21%.
- 01 vết (phẫu thuật) dẫn lưu hố chậu phải, kích thước: 1,5cm x 0,2cm. Tỷ lệ 01%.
Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra tại thời điểm giám định là 23%.
3. Kết luận khác: Cơ chế: Do vật sắc hoặc vật sắc nhọn tác động trực tiếp vào vùng tổn thương làm rách da, gân, cơ, mỡ, mạc treo, mạc nối ruột (Đại tràng sigma, hổng tràng, hồi tràng).
Về vật chứng thu giữ:
01 nón bảo hiểm có màu tương tự màu xám, trên nón có chữ “Nón Sơn” phía sau (do anh Kiên giao nộp).
01 nón bảo hiểm màu đen; 01 xe mô tô hiệu Exciter màu đen, biển kiểm soát 69F1-355.44, 01 chìa khóa xe; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Phạm Phú Huy số 381771821, cấp ngày 09/02/2012; 01 điện thoại di động màu đen, hiệu OPPO, sim số 0945.077.952; 01 sổ hộ khẩu gia đình phô tô mang tên Trần Thị H;
01 áo thun ngắn tay màu đen, phía trước áo có dòng chữ ESSENTIALS; 01 quần vải, ống dài, màu đen.
Về trách nhiệm dân sự: Bà Đinh Thị L đã bồi thường thiệt hại cho L số tiền 30.000.000đ.
Từ những tình tiết nêu trên, tại Cáo trạng số 33/CT-VKS ngày 14 tháng 7 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi đã truy tố bị cáo Phạm Phú H về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung Cáo trạng đã nêu. Về trách nhiệm hình sự: Trong thời gian tạm giam, bị cáo đã nhận thấy sai lầm của mình, đã ăn năn hối cải, xin bị hại tha lỗi cho bị cáo và yêu cầu giảm nhẹ hình phạt. Về xử lý vật chứng: Bị cáo xin nhận lại 01 xe mô tô hiệu Exciter màu đen, biển kiểm soát 69F1-355.44, 01 chìa khóa xe; 01 giấy chứng minh nhân dân nag tên Phạm Phú Huy số 381771821, cấp ngày 09/02/2012; 01 điện thoại di động màu đen, hiệu OPPO, sim số 0945.077.952; 01 nón bảo hiểm màu đen. Bị cáo không yêu cầu nhận lại 01 sổ hộ khẩu gia đình phô tô mang tên Trần Thị H; 01 áo thun ngắn tay màu đen, phía trước áo có dòng chữ ESSENTIALS; 01 quần vải, ống dài, màu đen.
- Bị hại yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Gia đình bị cáo đã bồi thường tổng số tiền 30.000.000đ nên không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.
- Bà Đinh Thị L trình bày: Số tiền 30.000.000đ bà đã bồi thường cho bị hại là của bị cáo nên không yêu cầu bị cáo hoàn trả lại số tiền trên.
- Anh Phạm Minh K trình bày: Trong quá trình điều tra, anh đã nộp cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đầm Dơi 01 mũ bảo hiểm có màu tương tự như màu xám, trên nón có chữ “Nón Sơn” phía sau. Tài sản trên không phải của anh và anh cũng không biết của ai, anh nhặt được trước sân nhà. Tại phiên tòa, anh không yêu cầu nhận lại.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi vẫn giữ nguyên quan điểm cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo H phạm tội “Cố ý gây thương tích” Xử phạt: Bị cáo H từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 nón bảo hiểm có màu tương tự màu xám, trên nón có chữ “Nón Sơn” phía sau, 01 sổ hộ khẩu gia đình phô tô mang tên Trần Thị H; 01 áo thun ngắn tay màu đen, phía trước áo có dòng chữ ESSENTIALS; 01 quần vải, ống dài, màu đen. Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô hiệu Exciter màu đen, biển kiểm soát 69F1-355.44, 01 chìa khóa xe; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Phạm Phú H số 381771821, cấp ngày 09/02/2012; 01 điện thoại di động màu đen, hiệu OPPO, sim số 0945.077.952; 01 nón bảo hiểm màu đen. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo yêu cầu Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để có điều kiện chăm sóc cha mẹ già và nuôi hai con còn nhỏ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đầm Dơi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về trách nhiệm hình sự:
[2.1] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi truy tố. Lời thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời trình bày của bị cáo, bị hại, người làm chứng trong quá trình điều tra, phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 19/02/2021 và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Ngày 18/02/2021 tại ấp TT, xã TD, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau bị cáo H đã dùng dao Thái Lan là hung khí nguy hiểm đâm anh L gây thương tích với tỷ lệ 23%.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự quy định: “a) Dùng ... hung khí nguy hiểm...” Điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự quy định: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:...
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này” Do đó, Cáo trạng số 33/CT-VKS ngày 14 tháng 7 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đầm Dơi đã truy tố bị cáo Phạm Phú H về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2.2] Xét tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp nghiêm trọng. Trước, trong và sau khi phạm tội bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Ngoài ra, bị cáo có nhân thân không tốt vào ngày 21/11/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và tội “Hủy hoại tài sản”.
[2.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động đến gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại, sau khi phạm tội bị cáo đã đầu thú, bị cáo có 02 con còn nhỏ, sự việc xảy ra có một phần lỗi của bị hại và tại phiên tòa bị hại có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[2.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[2.5] Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự như đã nhận định. Hội đồng xét xử quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự.
[3] Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 nón bảo hiểm màu đen, 01 xe mô tô hiệu Exciter màu đen, biển kiểm soát 69F1-355.44, 01 chìa khóa xe; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Phạm Phú H số 381771821, cấp ngày 09/02/2012; 01 điện thoại di động màu đen, hiệu OPPO, sim số 0945.077.952 không phải là công cụ, phương tiện phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
Đối với 01 nón bảo hiểm có màu tương tự như màu xám, trên nón có chữ “Nón Sơn” phía sau, 01 sổ hộ khẩu gia đình phô tô mang tên Trần Thị H; 01 áo thun ngắn tay màu đen, phía trước áo có dòng chữ ESSENTIALS; 01 quần vải, ống dài, màu đen giá trị sử dụng không lớn, bị cáo không yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và bà L không đặt ra yêu cầu xem xét đối với số tiền đã bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết là phù hợp.
[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Phú H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt: Bị cáo Phạm Phú H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19 tháng 02 năm 2021.
2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Trả lại cho bị cáo Phạm Phú H 01 nón bảo hiểm màu đen; 01 xe mô tô hiệu Exciter màu đen, biển kiểm soát 69F1-355.44, 01 chìa khóa xe; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Phạm Phú H số 381771821, cấp ngày 09/02/2012; 01 điện thoại di động màu đen, hiệu OPPO, sim số 0945.077.952.
Tịch thu tiêu hủy: 01 nón bảo hiểm có màu tương tự màu xám, trên nón có chữ “Nón Sơn” phía sau; 01 sổ hộ khẩu gia đình phô tô mang tên Trần Thị H; 01 áo thun ngắn tay màu đen, phía trước áo có dòng chữ ESSENTIALS; 01 quần vải, ống dài, màu đen.
(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15 tháng 7 năm 2021)
3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Phạm Phú H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo H, anh L và bà L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 36/2021/HSST
Số hiệu: | 36/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/11/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về