Bản án về tội cố ý gây thương tích số 35/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 35/2022/HS-ST NGÀY 14/02/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 14 tháng 02 năm 2022 tại tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 12/2022/TLST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2022/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Tấn T, sinh năm 1996 tại tỉnh S; hộ khẩu thường trú: ấp N, xã Tr, huyện Tr, tỉnh S; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tấn D sinh năm 1976 và bà Nguyễn Thị K sinh năm 1978; vợ tên Ngô Thị Kiều O, có 01 sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: không; bị bắt truy nã từ ngày 01 tháng 9 năm 2021 sau đó tạm giữ, tạm giam cho đến nay; hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thị xã Tân Uyên (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Thái Thanh H - Luật sư Văn phòng Luật sư T thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bình Dương (có mặt).

- Bị hại: Ông Võ Văn N, sinh năm 1990; thường trú: ấp B, xã H, huyện C, tỉnh T (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Tấn D, sinh năm 1976; hộ khẩu thường trú: ấp N, xã T, huyện T, tỉnh S (có mặt).

- Người làm chứng:

1. Ông Võ Văn C (có mặt).

2. Ông Dương Ký H (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Văn C và Võ Văn N là anh em ruột. Cộng và N cùng làm công nhân với Nguyễn Tấn T tại Công ty Nh thuộc khu phố Khánh Hội, phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Khoảng 22 giờ ngày 27/8/2017, do C đến nhận ca trễ nên giữa T và C phát sinh mâu thuẫn do C đến trễ. C dùng cuộn giấy carton ném vào người của T nhưng không trúng. T liền đuổi theo C để đánh C thì C bỏ chạy đến vị trí của N. Lúc này, N nhìn thấy T đang đuổi theo phía sau C nên nhặt khúc gỗ hình hộp dài 1,2m định đánh T thì bị ông Dương Ký H giật lấy nên N dùng tay đánh vào mặt của T. C cầm thanh sắt dài 48cm đánh vào vùng mặt của T. Lúc này, T nhặt 01 cây búa định đánh trả thì N dùng tay giật lấy búa, làm cho T ngã xuống đất, N tiếp tục dùng tay đánh vào mặt của T. Cùng lúc này ông Trần Văn Vũ Luân làm việc gần đó, cùng với ông H can ngăn không cho N, C và T đánh nhau.

Sau khi được can ngăn T về phòng trọ. Khoảng 30 phút sau do bực tức bị N và C đánh nên T lấy 01 con dao bằng kim loại, dài khoảng 41 cm, bản rộng 7cm (lưỡi dao dài khoảng 29 cm, cán gỗ dài khoảng 12cm) ở phòng trọ đi đến Công ty tìm N và C. Khi thấy N đang làm việc, T đi đến vị trí N dùng dao chém trúng vào khuỷu tay trái của N. Bị T dùng dao chém, N liền nhặt cây búa định chống trả, T tiếp tục dùng dao chém vào cẳng tay trái của N, N liền vứt bỏ búa xuống đất, bỏ chạy đến vị trí C đang làm việc báo cho C biết, C nghe thấy nên liền bỏ chạy. Lúc này, T đuổi theo C và N nhưng được ông H can ngăn. Ngày 31/8/2017, C đến Công an phường Tân Phước Khánh trình báo vụ việc cố ý gây thương tích.

Công an phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tiến hành lập hồ sơ ban đầu; thu giữ vật chứng gồm: 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Tấn T; 01 con dao dài 41cm, cán bằng cây tròn dài 12 cm, phần lưỡi dao bằng kim loại dài 29cm, đầu dao có lỗ tròn, chiều ngang 07cm, phần nối liền cán dao dài 03 cm (do Nguyễn Tấn T giao nộp), 01 thanh gỗ hình hộp (dài 112cm x cao 4 cm x ngang 9cm); 01 thanh kim loại cong vuông dài 49cm, ngang 04cm (do Dương Ký H giao nộp). Sau đó chuyển hồ sơ kèm vật chứng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên thụ lý giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 05/9/2017, Võ Văn N làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án và yêu cầu giám định thương tích.

Tại Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 0905 ngày 14/11/2017 của Trung tâm Pháp y Sở Y tế tỉnh Đồng Nai kết luận Võ Văn N bị thương tích: Tổn thương mẻ lồi cầu ngoài xương cánh tay trái; tổn thương đứt toàn bộ gân cơ duỗi cổ tay trái và các ngón tay trái đã phẫu thuật khâu nối, hạn chế gấp duỗi cổ tay trái mức độ nhẹ. Vết thương khuỷu tay trái để lại sẹo kích thước (06x0,3) cm và vết thương cẳng tay trái để lại sẹo kích thước (11x0,3) cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là: 11%.

Vật chứng thu giữ: 01 giấy chứng minh nhân dân tên Nguyễn Tấn T, 01 con dao dài 41 cm (cán bằng cây tròn dài 12 cm, phần lưỡi dao bằng kim loại dài 29 cm, đầu dao bằng lỗ tròn, chiều ngang 07 cm, phần nối liền cán dao dài 03 cm); 01 thanh gỗ hình hộp (dài 112 x cao 4cm x ngang 9cm); 01 thanh kim loại cong vuông dài 49cm, ngang 04 cm.

Đối với thương tích của bị cáo Nguyễn Tấn T: bị cáo T không yêu cầu xử lý hình sự và giám định thương tích. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên không có cơ sở xử lý đối với Võ Văn C, Võ Văn N.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Võ Văn N yêu cầu bồi thường số tiền 30.000.000 đồng gồm chi phí điều trị thương tích và chi phí cho việc giám định thương tích. Ngày 14/02/2022, ông Nguyễn Tấn D là cha của bị cáo T đã nộp 10.000.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên để bồi thường khắc phục hậu quả thay cho bị cáo T.

Tại Cáo trạng số 29/CT-VKS.TU ngày 20 tháng 01 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Tấn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở xác định hành vi phạm tội của bị cáo. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn T từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù; ghi nhận sự thỏa thuận của bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại số tiền 30.000.000 đồng; tuyên trả lại cho bị cáo 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Tấn T, tịch thu tiêu hủy đối với 01 con dao dài 41 cm; 01 thanh gỗ hình hộp; 01 thanh kim loại là phương tiện dùng để đánh nhau.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: thống nhất đối với tội danh và điều luật mà Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên đề nghị áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Tấn T, tuy nhiên mức hình phạt đại diện Viện Kiểm sát đề nghị là cao, đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo T, lỗi của bị hại, áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ “phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra”, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, từng tham gia làm nhiệm vụ, nghĩa vụ quân sự tại đảo Trường Sa Đông theo điểm e khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Nguyễn Tấn T đồng ý với ý kiến của người bào chữa, không trình bày bổ sung.

Bị hại Võ Văn N không trình bày tranh luận.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Nguyễn Tấn D trình bày: Số tiền 10.000.000 đồng, ông tự nguyện bồi thường thay cho bị cáo, không yêu cầu bị cáo trả lại.

Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, để bị cáo sớm trở về gia đình, lo cho vợ con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan điều tra – Công an, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện việc điều tra, truy tố, ban hành quyết định, văn bản tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên đã truy tố đối với bị cáo. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, những người làm chứng và phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận: ngày 27 tháng 8 năm 2017, tại Công ty Nhất K thuộc khu phố Khánh Hội, phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, để giải quyết mâu thuẫn do khi bị Võ Văn C và bị hại Võ Văn N đánh gây trầy xước, chảy máu ở vùng ngực, vùng trán và đầu, bị cáo Nguyễn Tấn T dùng 01 con dao bằng kim loại, dài khoảng 41 cm, bản rộng 7cm, là hung khí nguy hiểm, chém 02 nhát, gây thương tích vào tay trái của bị hại Võ Văn N, với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 11%.

[3] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, nhận thức được hành vi của mình là trái pháp pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Căn cứ vào hành vi “dùng hung khí nguy hiểm” của bị cáo và tỷ lệ tổn thương cơ thể của bị hại, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo Nguyễn Tấn T tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại với số tiền 10.000.000 đồng, bị cáo từng tham gia nghĩa vụ quân sự tại đảo Trường Sa Đông, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

[6] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự và an toàn xã hội tại địa phương, do đó cần áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian phù hợp nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc đến nhân thân, nguyên nhân và điều kiện phạm tội của bị cáo để quyết định hình phạt cho phù hợp.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tấn T đồng ý bồi thường cho bị hại Võ Văn N số tiền 30.000.000 đồng, việc thỏa thuận phù hợp quy định pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Ông Nguyễn Tấn D không yêu cầu bị cáo trả số tiền 10.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng:

Trả lại bị cáo 01 giấy chứng minh nhân dân tên Nguyễn Tấn T.

01 con dao dài 41cm, cán bằng cây tròn dài 12 cm, phần lưỡi dao bằng kim loại dài 29cm, đầu dao có lỗ tròn, chiều ngang 07cm, phần nối liền cán dao dài 03 cm , 01 thanh gỗ hình hộp (dài 112cm x cao 4 cm x ngang 9cm); 01 thanh kim loại cong vuông dài 49cm, ngang 04cm là hung khí dùng để đánh nhau nên tịch thu tiêu hủy.

[9] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên về mức hình phạt là cao, Hội đồng xét xử cân nhắc tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nguyên nhân xảy ra vụ án, quyết định mức hình phạt thấp hơn mức đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với bị cáo. Ý kiến của người bào chữa về việc yêu cầu áp dụng điểm e khoản 1 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự là không phù hợp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[10] Bị cáo bị kết án, có trách nhiệm bồi thường nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các khoản 1, 2 Điều 260; Điều 268; khoản 1 Điều 269; khoản 1 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn T 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01 tháng 9 năm 2021.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585, 586, 590 Bộ luật Dân sự Buộc bị cáo Nguyễn Tấn T bồi thường cho bị hại Võ Văn N số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng.

Tạm giữ số tiền 10.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền số AA/2021/0003345 ngày 14/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên để đảm bảo thi hành án.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thi hành án thì còn phải trả tiền lãi, theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Tấn T 01 chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Tấn T.

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 con dao dài 41cm, lưỡi dao bản rộng 07cm dài 29 cm, cán dao tròn dài 12 cm;

- 01 thanh gỗ hình hộp (04 x 09 x 112) cm;

- 01 thanh sắt hộp vuông (04 x 04 x 49) cm.

(Vật chứng được ghi nhận trong Biên bản giao nhận vật chứng ngày 11 tháng 02 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

4. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, c khoản 1 Điều 23, Điều 26, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và Danh mục Án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết:

Bị cáo Nguyễn Tấn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm; 1.000.000 (một triệu) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại Điều 6, Điều 7A, Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

74
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 35/2022/HS-ST

Số hiệu:35/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;