Bản án về tội cố ý gây thương tích số 28/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHƯ XUÂN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 28/2024/HS-ST NGÀY 12/09/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 12 tháng 9 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm - Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa và điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2024/TLST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2024/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 7 năm 2024 đối với bị cáo:

Phùng Văn H - sinh ngày: 16/01/1969, tại huyện N, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 03/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phùng Văn Q (đã chết); con bà: Bùi Thị K (đã chết); có vợ là: Bùi Thị B, sinh năm 1977; có 02 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2003;

Tiền án: Bản án số 10/2020/HS-ST ngày 14/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Như Xuân xử phạt bị cáo 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 30/6/2022 nhưng chưa thực hiện việc bồi thường thiệt hại;

Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25/3/2024 cho đến nay; hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N (có mặt).

- Bị hại: Anh Bùi Văn L - sinh năm: 1995 Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).

- Người làm chứng:

+ Chị Bùi Thị H1 - sinh năm: 1994 Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt);

+ Anh Lê Văn H2 - sinh năm: 1985 Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ 00 phút ngày 10/02/2024, Bùi Văn L, sinh năm 1995, trú tại thôn Đ, xã T, huyện N đến nhà Phùng Văn H, sinh năm 1969, ở thôn Đ, xã T, huyện N chơi, uống rượu. Trong lúc cùng ngồi ăn và uống rượu trong gian bếp của nhà H, H dùng tay lấy chân gà từ trong bát miến ra để ăn, thấy như vậy thì L nói: “Sao bác ăn bẩn thế”, H đáp: “Ăn bẩn kệ tao”, rồi hai người xảy ra cãi vã lẫn nhau. H bực tức, dùng tay phải cầm lấy 01 viên gạch không nung (gạch vồ) có sẵn trong bếp ném trúng vào mặt L, rồi tiếp tục lấy chiếc chày bằng gỗ đập 02 cái vào bả vai và lưng bên trái của L. Lúc này, L cũng giằng co giật lấy chiếc chày của H làm H bị ngã, chống tay xuống đất, nhưng do đã bị đánh nên L choáng, nằm xuống sàn nhà. Thấy vậy, H rút 01 đoạn củi bằng gỗ trong bếp ra vụt liên tiếp vào người L. Thấy L không còn phản ứng gì, H mới dừng lại, bế L ra giường phía gian phòng ngoài nằm, còn H bỏ vào gian buồng nằm ngủ. Sau khi tỉnh lại, L cố bỏ ra khỏi nhà H thì được chị Bùi Thị H1, sinh năm 1994, trú tại thôn Đ, xã T (hàng xóm nhà H) phát hiện, truy hô mọi người để gọi điện thoại báo cáo sự việc cho Công an xã T. Sau đó, lực lượng Công an xã T đã đến đưa L đi cấp cứu, điều trị thương tích và tiếp nhận, xác minh sơ bộ sự việc và chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N thụ lý, giải quyết.

Kết quả khám thương ban đầu và hồ sơ bệnh án của Bùi Văn L xác định L bị các thương tích như sau:

- Vùng trán, chính giữa hai lông mày có vết thương sưng nề, kích thước (3 x 4)cm;

- Đuôi mắt phải có vết thương rách da, đã khâu, kích thước (2 x 1)cm;

- Cánh mũi phải có vết thương rách da, đã khâu, kích thước (2,5 x 1)cm;

- Sống mũi có vết thương rách da, đã khâu, kích thước (4 x 1,5)cm;

- Vùng mắt phải có khối sưng nề, tấy đỏ, kích thước (6 x 2,5)cm;

- Vùng mắt trái có khối sưng nề, tấy đỏ, kích thước (5 x 3)cm;

- Vùng nhân trung có vết thương rách da, đã khâu, kích thước (2,5 x 0,3)cm;

- Ngay sát môi dưới bên phải có vết thương rách da, đã khô, kích thước (1 x 0,2)cm;

- Thái dương bên trái, ngay sát tai trái có vết thương rách da, đã khâu, kích thước (1,5 x 1)cm;

- Cánh tai trái có vết rách da, kích thước (0,5 x 0,1)cm;

- Vùng ngực phải có 01 vết bầm tím, kích thước (3 x 4,5)cm;

- Vùng lưng bên trái có vết rách da, đã khô, kích thước (4,5 x 0,3)cm;

- Vùng mặt bên phải, trán phải có nhiều vết bầm tím, kích thước trong diện (16 x 10)cm.

Tại Kết luận giám định số 1391/KL-KTHS ngày 05/3/2024 của V, Bộ C xác định:

- Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với Bùi Văn L được tính theo phương pháp xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể (Cộng theo phương pháp xác định tỷ lệ % TTCT quy định tại Điều 4 - Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y) là 23% (hai mươi ba phần trăm).

- Về cơ chế hình thành thương tích: Tổn thương vùng bình tai trái do vật có diện tiếp xúc hẹp gây nên; các tổn thương còn lại do vật tày gây nên.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra xác định hung khí H sử dụng đánh gây thương tích cho Bùi Văn L gồm: 01 (một) viên gạch không nung, màu xám, kích thước (27 x 15 x 10) cm; 01 (một) chày bằng gỗ, hình trụ tròn, màu nâu, dài 22,5 cm, một đầu to có đường kính 05 cm, một đầu nhỏ có đường kính 04 cm, trên thân chày có hai vòng tròn được khắc sâu vào trong thân chày; 01 (một) đoạn mảnh gỗ, cứng chắc, để lộ phần lõi, có một đầu đang cháy dở, dài 94 cm, hai đầu không bằng nhau, có kích thước lần lượt là (3,9 x 4,1) cm và (4,3 x 4,5) cm, thân bị bong tróc vỏ.

* Về việc thu giữ, tạm giữ, xử lý đồ vật, tài liệu vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ:

- 01 (một) viên gạch không nung, màu xám, kích thước (27 x 15 x 10) cm;

- 01 (một) chày bằng gỗ, hình trụ tròn, màu nâu, dài 22,5 cm, một đầu to có đường kính 05 cm, một đầu nhỏ có đường kính 04 cm, trên thân chày có hai vòng tròn được khắc sâu vào trong thân chày;

- 01 (một) đoạn mảnh gỗ, cứng chắc, để lộ phần lõi, có một đầu đang cháy dở, dài 94 cm, hai đầu không bằng nhau, có kích thước lần lượt là (3,9 x 4,1) cm và (4,3 x 4,5) cm, thân bị bong tróc vỏ.

Các vật chứng nêu trên hiện đang được bảo quản, chờ xử lý theo quy định.

* Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị hại Bùi Văn L yêu cầu bị cáo Phùng Văn H phải bồi thường chi phí điều trị thương tích, chi phí đi lại, ăn uống và tổn hại sức khỏe với số tiền 20.000.000 đồng. Hiện bị cáo chưa bồi thường cho bị hại.

Tại Bản cáo trạng số 22/CT-VKSNX ngày 07/6/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Phùng Văn H về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Phùng Văn H giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thừa nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa truy tố là hoàn toàn đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Bị cáo đồng ý bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bị hại với số tiền là 20.000.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Phùng Văn H phạm tội “Cố ý gây thương tích”;

- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phùng Văn H từ 36 tháng đến 42 tháng tù. Thời gian bị cáo đã bị tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, Điều 585, Điều 586 và Điều 590 của Bộ luật Dân sự, buộc bị cáo Phùng Văn H phải bồi thường cho bị hại là anh Bùi Văn L số tiền 20.000.000 đồng.

- Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy đối với: 01 (một) viên gạch không nung, màu xám, kích thước (27 x 15 x 10) cm; 01 (một) chày bằng gỗ, hình trụ tròn, màu nâu, dài 22,5 cm, một đầu to có đường kính 05 cm, một đầu nhỏ có đường kính 04 cm, trên thân chày có hai vòng tròn được khắc sâu vào trong thân chày; 01 (một) đoạn mảnh gỗ, cứng chắc, để lộ phần lõi, có một đầu đang cháy dở, dài 94 cm, hai đầu không bằng nhau, có kích thước lần lượt là (3,9 x 4,1) cm và (4,3 x 4,5) cm, thân bị bong tróc vỏ.

- Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo thống nhất với luận tội và không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Khi nói lời sau cùng, bị cáo nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản xem xét dấu vết trên thân thể bị hại, kết quả khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định pháp y, vật chứng vụ án và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở để kết luận:

Vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 10/02/2024, do xảy ra mâu thuẫn với anh Bùi Văn L trong lúc cùng uống rượu tại nhà mình ở thôn Đ, xã T, huyện N nên Phùng Văn H đã nhặt lấy viên gạch không nung (gạch vồ) ném trúng vùng mặt anh Bùi Văn L, sau đó lấy chiếc chày bằng gỗ, đoạn củi bằng gỗ đang cháy dở trong bếp đánh liên tiếp vào người anh Bùi Văn L, làm anh L bị tổn thương cơ thể 23% (hai mươi ba phần trăm).

Trong vụ án này, mặc dù bị cáo và bị hại có quan hệ quen biết, bạn bè với nhau nhưng chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong lúc cùng sinh hoạt, ăn uống, bị cáo đã dùng hung khí nguy hiểm (là những loại vật dụng có sẵn trong nhà) tấn công, gây thương tích nặng cho bị hại, điều đó thể hiện tính chất côn đồ của bị cáo.

Do đó, hành vi của bị cáo Phùng Văn H có tính chất côn đồ, dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại Bùi Văn L với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 23% (hai mươi ba phần trăm) đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét về tính chất, mức độ hành vi, hậu quả thấy rằng: Hành vi có ý gây thương tích của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo thể hiện ý thức xem thường pháp luật, không những trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ mà còn ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, gây hoang mang cho quần chúng nhân dân tại địa phương. Vì vậy, cần xử lý nghiêm minh để cải tạo, giáo dục bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật, đồng thời để giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng:

Bị cáo Phùng Văn H không có tiền sự nhưng là người có nhân thân xấu, đã bị kết án về tội “Cố ý gây thương tích”, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới do cố ý nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải tuyên cho bị cáo một hình phạt thật nghiêm và cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị hại Bùi Văn L yêu cầu bị cáo Phùng Văn H phải bồi thường chi phí điều trị thương tích, chi phí đi lại, ăn uống và tổn hại sức khỏe với số tiền 20.000.000 đồng. Hiện bị cáo chưa bồi thường cho bị hại. Yêu cầu của bị hại là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, hơn nữa tại phiên tòa, bị cáo cũng đồng ý bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bị hại theo yêu cầu của bị hại, nên Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền là 20.000.000 đồng.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đối với 01 (một) viên gạch không nung, màu xám, kích thước (27 x 15 x 10) cm; 01 (một) chày bằng gỗ, hình trụ tròn, màu nâu, dài 22,5 cm, một đầu to có đường kính 05 cm, một đầu nhỏ có đường kính 04 cm, trên thân chày có hai vòng tròn được khắc sâu vào trong thân chày; 01 (một) đoạn mảnh gỗ, cứng chắc, để lộ phần lõi, có một đầu đang cháy dở, dài 94 cm, hai đầu không bằng nhau, có kích thước lần lượt là (3,9 x 4,1) cm và (4,3 x 4,5) cm, thân bị bong tróc vỏ: Là vật chứng của vụ án, là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về vấn đề khác: Trong quá trình bị cáo đánh, gây thương tích cho bị hại Bùi Văn L, bị anh L chống cự, giằng co làm cho bị cáo H bị ngã, chống tay xuống đất và bị thương ở mu bàn tay trái; kết quả giám định thương tích xác định bị cáo H bị tổn thương cơ thể 01% (một phần trăm). Xét thấy, anh L không có lỗi trong việc gây ra thương tích cho bị cáo H nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý đối với anh L là phù hợp, đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, - Tuyên bố: Bị cáo Phùng Văn H phạm tội “Cố ý gây thương tích”;

- Xử phạt: Bị cáo Phùng Văn H 39 (ba mươi chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/3/2024.

- Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586 và Điều 590 của Bộ luật Dân sự, buộc bị cáo Phùng Văn H phải bồi thường cho anh Bùi Văn L số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, Tịch thu tiêu hủy đối với: 01 (một) viên gạch không nung, màu xám, kích thước (27 x 15 x 10) cm; 01 (một) chày bằng gỗ, hình trụ tròn, màu nâu, dài 22,5 cm, một đầu to có đường kính 05 cm, một đầu nhỏ có đường kính 04 cm, trên thân chày có hai vòng tròn được khắc sâu vào trong thân chày; 01 (một) đoạn mảnh gỗ, cứng chắc, để lộ phần lõi, có một đầu đang cháy dở, dài 94 cm, hai đầu không bằng nhau, có kích thước lần lượt là (3,9 x 4,1) cm và (4,3 x 4,5) cm, thân bị bong tróc vỏ.

(Toàn bộ số vật chứng, tài sản nêu trên hiện đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 29/2024/TSTV ngày 10/6/2024 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Như Xuân).

- Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1, khoản 3 Điều 21 và điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Phùng Văn H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.000.000 đồng (một triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 28/2024/HS-ST

Số hiệu:28/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Như Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;