TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 281/2021/HS-ST NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 17 tháng 9 năm 2021, tại phòng xử án A, trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 232/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 256/2021/QĐXXST- HS ngày 18 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Đức H (Tên gọi khác: Không), Sinh ngày 22 tháng 12 năm 1989, tại tỉnh Đắk Lắk;
Nơi ĐKHKTT và cư trú: Tổ dân phố 1, phường T, thành phố B, tỉnh Đ; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 08/12; con ông Nguyễn Đ, sinh năm 1952 và con bà Hồ Thị H, sinh năm: 1953; bị cáo có vợ là Lâm Thị H và 01 con, sinh năm: 2013; tiền án, tiền sự: Không.
Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 16/4/2021 đến nay – Có mặt.
* Người bị hại: Ông Từ Tấn M, sinh năm: 1963. Địa chỉ: 87 N, phường T, thành phố B, tỉnh Đ - có mặt.
* Người làm chứng:
Ông Vòng Cá K, sinh năm: 1977. Địa chỉ: 18/3 Đ, phường T, thành phố B, tỉnh Đ.
Ông Trương Mạnh C, sinh năm: 1987. Địa chỉ: Tổ dân phố 6, phường T, thành phố B, tỉnh Đ.
(Đều có đơn xin vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Đức H làm nghề bốc vác thuê tại khu vực chợ Đầu Mối, phường Tân Hòa, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Quá trình làm việc tại đây, H có nghe một số người buôn bán trong chợ nói H có quan hệ b t chính với bà Ha. Đến khoảng 17h ngày 08/02/2021 chồng bà Ha đến tìm H để gây sự, H đã giải thích không phải và hỏi một số người nguồn thông tin từ đâu thì được biết từ vợ chồng ông Từ Tấn M bán quán nước ở chợ; Do bực tức nên H có uống rượu đến khoảng 21 giờ cùng ngày H đến tiệm tạp hóa (chưa xác định được địa điểm) mua 01 con dao rựa, có lưỡi bằng kim loại dài 30cm, cán bằng gỗ dài 60cm, mũi quắp, rồi cầm theo đi bộ đến khu vực chợ Đầu Mối, phường Tân Hòa, thành phố Buôn Ma Thuột tìm ông M để giải quyết mâu thuẫn. Khi đi đến khu vực đường Rơ Chăm Yơn, thuộc chợ Đầu Mối, phường Tân Hòa, thành phố Buôn Ma Thuột, H thấy anh Vòng Cá K và anh Trương Mạnh C đang bốc xếp hàng lên xe tải thì H đi đến nói chuyện với anh Khìn và anh Cường. Tại đây, H c t giấu con dao rựa bên hông chiếc xe tải rồi nhờ anh Khìn gọi mua nước uống dùm H, thì anh Khìn đồng ý. Sau đó, anh Khìn dùng điện thoại di dộng gọi điện cho ông M mang nước đến bán. Một lúc sau, khi H th y ông M điều khiển xe mô tô mang nước đến, thì H và ông M cãi nhau qua lại về việc ông M nói H có quan hệ yêu đương b t chính với người khác. Lúc này, ông M đang ngồi trên xe mô tô, còn H chạy đến bên hông xe tải l y cây dao rựa đã c t gi u trước đó, giơ lên và xoay cán rựa lại để dọa đánh ông M thì H làm cây rựa rớt xuống đ t. Th y vậy, ông M chạy lại định dẫm chân lên cây rựa thì H đẩy ông M ra rồi cả hai giằng co nhau, xô xát để giành cây dao rựa. Quá trình giằng co, xô xát thì H vật ông M ngã xuống đất và giành được cây dao rựa và làm cây rựa đập trúng vào vùng tai bên trái của ông M gây thương tích chảy máu, thì được anh Khìn và anh Cường đi đến can ngăn. Lúc này, H và ông M vẫn tiếp tục cãi nhau qua lại, khi ông M vừa đứng dậy thì H dùng tay phải cầm dao rựa, quay ngược sống rựa lại đánh trúng vào vùng mặt của ông M làm ông M ngã xuống rồi H cầm rựa bỏ chạy, còn ông M được người dân đưa đến Bệnh viện Đa khoa Vùng Tây Nguyên điều trị thương tích.
Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 362/TgT-TTPY ngày 26/3/2021 của Trung tâm giám định Pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận ông Từ Tấn M bị: Ch n thương vùng mũi; Gãy xương chính mũi là do tác động trực tiếp của vật tày, cứng hướng từ trước ra sau. Vết thương đứt ngang vành tai trái để lại sẹo 1/3 giữa vành tai trái kéo dài từ mặt trước ra mặt sau là do tác động trực tiếp của vật sắc hướng từ trước ra sau, từ trái qua phải. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 11%.
Cáo trạng số: 269/CT-VKS-HS ngày 05 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Nguyễn Đức H về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 (BLHS).
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng với diễn biến sự việc mà Viện kiểm sát đã truy tố. Ngoài ra bị cáo còn khai giữa bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn gì, nH sau khi nghe thông tin vợ chồng ông M đã loan tin không đúng về mình nên sau khi uống rượu bị cáo không làm chủ được bản thân đã đi mua 01 dao rựa đến tìm ông M để gây thương tích. Tại phiên tòa bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường 43.100.000đ, bị cáo đồng ý đề nghị Tòa án ghi nhận.
Tại phiên tòa, bị hại khai: Giữa các bên không có mâu thuẫn trước đó, bị hại không nói thông tin gì liên quan đến bị cáo. Khi bị hại mang nước đến theo yêu cầu của khách hàng thì bị cáo vô cớ gây sự và gây thương tích cho bị hại. Quá trình điều tra bị hại yêu cầu bồi thường 50.000.000đ, tuy nhiên tại phiên tòa bị hại thay đổi chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường 43.100.000đ.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Qua phân tích, đánh giá tính ch t, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, đồng thời đề cập các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, đề nghị:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Áp dụng điểm a, i khoản 1; điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù, thời hạn ch p hành hình phạt tính từ ngày thi hành án.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 dao rựa dài 90cm, lưỡi bằng kim loại dài 30cm, cán bằng gỗ dài 60cm, đường kính 03cm.
Về trách nhiệm dân sự: Công nhận thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và bị hại số tiền là 43.100.000 đồng. Buộc bị cáo Nguyễn Đức H phải bồi thường cho bị hại ông Từ Tấn M số tiền 43.100.000đồng.
Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì thêm chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến gì và khiếu nại về hành vi của những người tiến hành tố tụng, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng.
[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Qua đó có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 21 giờ ngày 08/02/2021, tại khu vực đường Rơ Chăm Yơn, thuộc chợ Đầu Mối, phường Tân Hòa, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, do không có mâu thuẫn từ trước và không tìm hiểu nguyên nhân Nguyễn Đức H đã sử dụng 01 con dao rựa dài 90cm, lưỡi bằng kim loại dài 30cm, cán bằng gỗ dài 60cm, đường kính 03cm, đánh vào vùng mặt, mũi và tai trái của ông Từ T n M gây thương tích với tỷ lệ là 11%. Bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a, i khoản 1; điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS, là có căn cứ pháp luật.
Điều 134 Bộ Luật Hình sự năm 2015 quy định:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm;
…………………………..
i) Có tính chất côn đồ;
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:
…………………… … đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này”
[3] Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là lỗi cố ý trực tiếp, thể hiện sự hung hăng coi thường pháp luật không những xâm phạm đến sức khỏe của bị hại, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương mà còn gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Sau khi gây thương tích vào tai trái của bị hại và đã được mọi người can ngăn nhưng bị cáo không dừng lại mà còn tiếp tục lấy sống dao đánh vào mặt bị hại dẫn đến bị hại bị thương tích 11% nên cần áp dụng mức hình phạt nghiêm Minh tương xứng với tính chất, mức độ do hành vi của bị cáo gây ra và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục riêng đồng thời răn đe, phòng ngừa chung trong đời sống xã hội về loại tội phạm này.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về điều luật áp dụng và mức hình phạt là phù hợp nên cần xem xét khi quyết định hình phạt.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Tình tiết tăng nặng: Không.
- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Năm 2011 tham gia nghĩa vụ quân sự tại tỉnh Kon Tum. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS áp dụng cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 dao rựa dài 90cm, lưỡi bằng kim loại dài 30cm, cán bằng gỗ dài 60cm, đường kính 03cm, là công cụ mà bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, nên cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị hại M yêu cầu bị cáo bồi thường tổng số tiền 43.100.000đ gồm các khoản: Tiền viện phí 7.800.000đ; tiền mua thuốc, ăn uống, đi lại là 11.400.000đ; tiền mất thu nhập trong thời gian điều trị là 6.900.000đ, tiền tổn thất tinh thần 17.000.000đ.
Xét các khoản nêu trên có khoản có hóa đơn, có khoản không có hóa đơn nH đều là những chi phí hợp lý; Hơn nữa tại phiên tòa bị cáo đồng ý mức bồi thường theo yêu cầu của người bị hại nên cần ghi nhận sự thỏa thuận để buộc bị cáo bồi thường là phù hợp.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật là 200.000đ và án phí dân sự sơ thẩm tương ứng 43.100.000đ x 5% = 2.155.000đ Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù, thời gian ch p hành hình phạt tính từ ngày ch p hành án.
2. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:
Tịch thu tiêu hủy 01 dao rựa dài 90cm, lưỡi bằng kim loại dài 30cm, cán bằng gỗ dài 60cm, đường kính 03cm (Có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột ngày 13/8/2021).
3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các điều 46, 48 BLHS; các điều 584, 585, 586, 590 Bộ luật Dân sự:
Ghi nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và bị hại. Buộc bị cáo Nguyễn Đức H phải bồi thường cho bị hại ông Từ T n M số tiền 43.100.000đồng (Bốn mươi ba triệu, một trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của BLDS 2015.
4. Về án phí: Căn cứ Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
Bị cáo Nguyễn Đức H phải chịu số tiền 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 2.155.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm bị cáo, bị hại có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ khi tuyên án
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 281/2021/HS-ST
Số hiệu: | 281/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về