Bản án về tội cố ý gây thương tích số 25/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ HÒA - TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 25/2021/HS-ST NGÀY 25/11/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 25 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Hòa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 24/2021/HSST ngày 19 tháng 8 năm 2021.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2021/HSST-QĐ ngày 01 tháng 9 năm 2021 đối với các bị cáo:

Đặng Quốc T, sinh ngày: 12/8/2001 tại thôn C, xã H, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên; Nơi cư trú: Thôn C, xã H, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên; Nghề nghiệp: Làm Nông; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Ng T, sinh năm: 1978 và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm: 1982.

Tiền án, tiền sự: Chưa có.

Nhân thân: Ngày 21/10/2019, Tòa án nhân dân huyện Phú Hòa ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án 05/2019/HSST-QĐ đối với Đặng Quốc Tín trong vụ án “Cố ý gây thương tích”.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Nguyễn Thành T1, tên gọi khác: Nheo, sinh ngày: 10/12/2000 tại tỉnh Phú Yên; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã H, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên; Nghề nghiệp: Làm Nông; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tấn T2, sinh năm; 1977 và bà Nguyễn Thị Kim H, sinh năm: 1979;

Tiền án: Chưa có.

Tiền sự:

- Ngày 15/11/2018 bị công an xã H, huyện Phú Hòa xử phạt 750.000 đồng vì có hành vi gây thương tích người khác.

- Ngày 16/8/2019 bị Công an huyện Phú Hòa xử phạt 750.000 đồng vì có hành vi trộm cắp tài sản người khác.

Nhân thân: Ngày 25/01/2021 bị Công an huyện Phú Hòa xử phạt 2.500.000 đồng vì có hành vi gây thương tích người khác Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Nguyễn Võ Hoàng A, sinh ngày: 02/10/2003 tại tỉnh Phú Yên; Nơi cư trú: thôn L, xã Q Nam, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên; Nghề nghiệp: Học sinh; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ng, sinh năm: 1966 và bà Võ Thị B, sinh năm: 1970.

Tiền án, tiền sự: Chưa có.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Văn Ng, sinh năm 1966 (cha), bà Võ Thị B, sinh năm 1970 (mẹ); Trú tại: Thôn L, xã H, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Bà B có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Ngô Văn T4 – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Yên cử theo QĐ số 10/QĐ-TGPL ngày 29/01/2021. Có mặt tại phiên tòa.

Trần Bảo L, sinh ngày: 28/10/1999 tại tỉnh Phú Yên; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã H, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên; Nghề nghiệp: Làm Nông; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần C, sinh năm: 1969 và bà Nguyễn Thị Bích Ng, sinh năm: 1971.

Tiền án, tiền sự: Chưa có.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

+ Anh Trần Bình H, sinh ngày 03/7/2003 Trú tại: huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

+ Anh Dương Minh Nh, sinh ngày 28/5/2004 Trú tại: huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

+ Người đại diện hợp pháp của Dương Minh Nh: Ông Dương Tấn Nh1, sinh năm 1971 (cha), bà Võ Thị U, sinh năm 1976 (mẹ); Trú tại: Thôn Q, xã H, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Lê Văn Tr, sinh năm: 1979;

Trú tại: huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

2. Nguyễn Minh H, sinh ngày 10/7/2004;

Trú tại: huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt

3. Nguyễn Ng Đ, sinh ngày 03/12/2005;

Trú tại: huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

4. Võ Quốc Th, sinh ngày 05/10/2005;

Trú tại: huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do có mâu thuẫn với Nguyễn Ng Đ và Dương Minh Nh nên vào chiều ngày 17/12/2020 Đặng Quốc T rủ Nguyễn Thành T1, Nguyễn Võ Hoàng A đến Trường trung học phổ thông Trần Suyền tìm Đ và Nh để đánh, tất cả đồng ý. Khi đến Trường Trần Suyền thì T có rủ thêm Trần Bảo L. Khi đến trường Trần Suyền, T thấy Nh đang điều khiển xe mô tô biển số 78M1-X chở Nguyễn Minh H nhưng không có Đ nên T hỏi Đ đâu thì Nh gọi điện thoại và nói Đ đang ở gần trường THCS Lương Văn Chánh. Nghe vậy, Nh điều khiển xe mô tô biển số 78M1-X chở H, T điều khiển xe mô tô biển số 78E1-080.22 chở A, T1 điều khiển xe mô tô biển số 78E1-X chở L đến khu vực Trường THCS Lương Văn Chánh thuộc thôn Phụng Tường 1, xã H, huyện Phú Hòa nhưng không có Đ, lúc này T nói với Nh “mày lừa tao hay gì” rồi dùng tay đánh Nh ngã xuống đất, tay cầm cục bê tông đánh liên tiếp nhiều cái vào đầu Nh. Th Nh bị đánh, H đến can ngăn T thì bị T1 dùng một (01) dao xếp dài 16,2cm đâm 03 cái trúng vào đầu, bụng, tay gây thương tích cho H. Nguyễn Võ Hoàng A, Trần Bảo L xông vào dùng tay đánh liên tiếp vào người H.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 369/TGT ngày 22/12/2020 và bản kết luận giám định bổ sung số 22/TGT ngày 29/01/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Phú Yên kết luận: Thương tích của Trần Bình H là 16% do vật sắc nhọn tác động trực tiếp.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 370/TgT ngày 31/12/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Phú Yên kết luận: Thương tích của Dương Minh Nh là 05%.

Về dân sự: Các bị cáo Trần Bảo L, Nguyễn Thành T1, Nguyễn Võ Hoàng A đã bồi thường cho người bị hại Trần Bình H 5.500.000 đồng.

Về vật chứng: 01 dao xếp dài 16,2cm; 01 cục bê tông diện (8 x 5 x9,5) cm.

Tại bản cáo trạng số 15/CT-VKS – PH ngày 17 tháng 6 năm 2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Hòa đã truy tố bị cáo Đặng Quốc T về tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự; các bị cáo Nguyễn Thành T1, Nguyễn Võ Hoàng A, Trần Bảo L về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ, khoản 2 Điều 134 BLHS.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả do bị cáo gây ra, tình tiết định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, giữ nguyên cáo trạng đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về hình phạt: Tuyên bố các bị cáo Đặng Quốc T, Nguyễn Thành T1, Nguyễn Võ Hoàng A, Trần Bảo L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ điểm a khoản 1 điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đặng Quốc T từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T1 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65; Điều 91 và Điều 101 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Võ Hoàng A từ 09 đến 12 tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng. Giao bị cáo Nguyễn Võ Hoàng A cho Ủy ban nhân dân xã Q Nam, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Bảo L từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 30 tháng đến 36 tháng. Giao bị cáo Trần Bảo L cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

+ Về xử lý vật chứng: : Áp dụng điều 47 BLHS, điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 dao xếp dài 16,2cm; 01 cục bê tông diện (8 x 5 x 9.5)cm, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/6/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Hòa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Hòa.

+ Về dân sự: Bị hại Dương Minh Nh và Trần Bình H không yêu cầu bồi thường thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.

+ Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, các bị cáo Đặng Quốc T, Nguyễn Thành T1, Nguyễn Võ Hoàng A, Trần Bảo L mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Võ Hoàng A trình bày: Cáo trạng truy tố bị cáo Nguyễn Võ Hoàng Anh phạm tội“Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS là có căn cứ. Thống nhất với tội danh và quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa.

- Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, khẳng định không bị oan; về hình phạt các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Bị cáo T khai nhận chính bị cáo là người rủ rê các bị cáo Hoàng A, T1 đánh bị hại Nh. Đến nay, bị cáo chưa bồi thường thiệt hại cho bị hại Dương Minh Nh.

- Người bị hại H không yêu cầu bồi thường thêm và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo T1, Hoàng A, Bảo L.

- Bị cáo Nguyễn Thành T1, Nguyễn Võ Hoàng A, Trần Bảo L và bị hại Trần Bình H thống nhất theo luận tội và không có ý kiến tranh luận. Riêng bị cáo Đặng Quốc T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết vì ngày 13/10/2021, bị hại Dương Minh Nh có đơn xin rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.

- Kiểm sát viên đối đáp liên quan ý kiến tranh luận của bị cáo Đặng Quốc T: Ngày 13/10/2021, bị hại Dương Minh Nh có đơn xin rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự nhưng không được sự xác nhận của người đại diện nên đơn này không đúng pháp luật.

- Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Tại Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung số 05/2021/HSST-QĐ ngày 30/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện Phú Hòa yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Hòa điều tra bổ sung để làm rõ các vấn đề còn mâu thuẫn liên quan đến các bị cáo Nguyễn Võ Hoàng A, Trần Bảo L. Tuy nhiên, tại Công văn số 04/VKS- HS ngày 17/8/2021 của VKSND huyện Phú Hòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như cáo trạng. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án đối với hành vi, tội danh theo giới hạn quy định tại Điều 298 BLTTHS.

[1.2] Quá trình giải quyết vụ án: Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2021/QDDXXST-HS ngày 01/9/2021, phiên tòa được mở vào lúc 07 giờ 30 phút ngày 14/9/2021. Tuy nhiên tại phiên tòa ngày 14/9/2021, các bị hại Trần Đình H, Dương Minh Nh và người đại diện hợp pháp của bị hại Dương Minh Nh vắng mặt nên hoãn phiên tòa và đồng thời ấn định lại thời gian mở phiên tòa vào lúc 07 giờ 30 phút ngày 24/9/2021. Tại phiên tòa ngày 24/9/2021, bị hại Trần Đình H, Dương Minh Nh, người đại diện hợp pháp của Nguyễn Võ Hoàng A và người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Võ Hoàng A đều vắng mặt và người đại diện hợp pháp của bị hại Dương Minh Nh tiếp tục vắng mặt không có lý do. Do đó phiên tòa ngày 24/9/2021 tiếp tục hoãn và đồng thời ấn định lại thời gian mở phiên tòa lúc 07 giờ ngày 05/10/2021. Tại phiên tòa ngày 05/10/2021, người đại diện hợp pháp của bị hại Dương Minh Nh tiếp tục vắng mặt. Hội đồng xét xử xét thấy người đại diện hợp pháp của người bị hại đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự vẫn tiến hành xét xử. Tại phiên tòa ngày 05/10/2021, bị hại Dương Minh Nh đã tự nguyệt rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với bị cáo Đặng Quốc T. Tuy nhiên bị hại Dương Minh Nh dưới 18 tuổi nên cần có ý kiến của đại diện hợp pháp của hại nên Hội đồng xét xử đã hoãn ngừng phiên tòa để có ý kiến của người đại diện hợp pháp của bị hại về việc rút yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại Dương Minh Nh. Ngày 13/10/2021, bị hại Dương Minh Nh có đơn rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, đơn có sự đồng ý của Dương Thị Thanh Nguyệt (là chị gái của bị hại Nh) đồng thời có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H, huyện Phú Hòa. Sau khi nhận đơn, Tòa án nhân dân huyện Phú Hòa đã mời bị hại Nh, bị cáo Đặng Quốc T và gia đình bị cáo Đặng Quốc T đến giải thích việc rút đơn của Dương Minh Nh phải có ý kiến của cha hoặc mẹ của bị hại Nh. Nhưng cho đến nay, người đại diện hợp pháp của bị hại Dương Minh Nh vẫn không có ý kiến gì nên phiên tòa tiến hành xét xử. Tại phiên tòa hôm nay, bị hại Dương Minh Nh vắng mặt không có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của người bị hại không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên phiên tòa tiếp tục xét xử.

[2] Về tội danh và khung hình phạt: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm đều phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng cùng các tài liệu là chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Do có mâu thuẫn từ trước giữa Đặng Quốc T với Nguyễn Ng Đ và Dương Minh Nh nên chiều ngày 17/12/2020, tại khu vực Trường THCS Lương Văn Chánh thuộc thôn Phụng Tường 1, xã H, huyện Phú Hòa, bị cáo Đặng Quốc T đã có hành vi dùng tay đánh Dương Minh Nh ngã xuống đất, Đặng Quốc T cầm cục bê tông là khung khí nguy hiểm đánh liên tiếp nhiều cái vào đầu Dương Minh Nh gây thương tích 5%. Th Dương Minh Nh bị đánh, Trần Bình H vào can ngăn thì bị Nguyễn Võ Hoàng A, Trần Bảo L có hành vi dùng tay đánh vào mặt Trần Bình H 4-5 cái và Nguyễn Thành T1 có hành vi dùng dao xếp là hung khí nguy hiểm đâm vào vùng bụng, tay của Trần Bình H gây thương tích 16%.

Tuy thương tích của Dương Minh Nh dưới 11% nhưng bị cáo Đặng Quốc T sử dụng cục đá bê tông để gây án, là thuộc trường hợp dùng hung khí nguy hiểm tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự. Do đó hành vi của bị cáo Đặng Quốc T đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Thương tích của người bị hại Trần Bình H là do bị cáo Nguyễn Thành T1 trực tiếp dùng dao bấm đâm. Các bị cáo Trần Bảo L và Nguyễn Võ Hoàng A dùng tay đánh 4-5 cái vào vùng mặt của Trần Bình H, tuy không gây thương tích cho Trần Bình H nhưng giữa các bị cáo có sự tiếp nhận ý của nhau khi thực hiện hành vi phạm tội. Do đó các bị cáo Trần Bảo L, Nguyễn Võ Hoàng A tham gia với vai trò là đồng phạm vừa giúp sức vừa thực hành. Tuy tỷ lệ thương tích của Huy dưới 31% nhưng các bị cáo L, T1, A đã sử dụng tay và dao sắc nhọn để gây án, là thuộc trường hợp dùng hung khí nguy hiểm tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự. Do đó hành vi của bị cáo Nguyễn Thành T1, Nguyễn Võ Hoàng A, Trần Bảo L đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, thể hiện ý thức coi thường pháp luật, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ mà sẵn sàng sử dụng hung khí nguy hiểm để gây thương tích cho người khác.

Các bị cáo phạm tội khi đủ tuổi và năng lực chịu trách nhiệm hình sự và thực hiện hành vi với lỗi cố ý.

Bị cáo Đặng Quốc T là người chủ mưu, rủ rê các bị cáo khác, là người thực hiện hành vi cố ý gây thương tích cho bị hại Dương Minh Nh. Bị cáo có nhân thân xấu về hành vi “Cố ý gây thương tích” vào năm 2019, lẽ ra bị cáo phải lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện, nhưng bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, cho thấy ý thức coi thường pháp luật, không thể tự cải tạo. Do đó, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới giáo dục được bị cáo và đảm bảo được công tác phòng, chống tội phạm.

Bị cáo Nguyễn Thanh T1 là người có 02 tiền sự trong đó có hành vi cố ý gây thương tích, bị cáo là người chuẩn bị hung khí nguy hiểm (dao xếp) và là người trực tiếp gây thương tích cho bị hại H. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội lần này tương tự như lần có tiền sự trước đó. Mặt khác, trước đó vào ngày 20/11/2020, bị cáo Nguyễn Thành T1 có hành vi dùng mã tấu chém vào vùng tay của Võ Thế Hi gây thương tích 7% và ngày 25/01/2021 bị Công an huyện Phú Hòa xử phạt hành chính 2.500.000 đồng; thể hiện bản tính bị cáo hung hăng, côn đồ, xem thường pháp luật. Do đó, khi quyết định hình phạt cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ tính răn đe, giáo dục bị cáo và để phòng ngừa chung.

Đối với các bị cáo Nguyễn Võ Hoàng A, Trần Bảo L tuy không biết Tuấn mang theo dao xếp nhưng có hành vi dùng tay đánh liên tiếp vào người bị hại Huy, vai trò tham gia vụ án của hai bị cáo là không đáng kể. Vậy nên, khi lượng hình phạt cần xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội để cho các bị cáo hưởng án treo cũng đủ giáo dục, răn đe hai bị cáo. Bị cáo Nguyễn Võ Hoàng A phạm tội khi 17 tuổi, 2 tháng 15 ngày, chưa có tiền án, tiền sự. Do đó khi xem xét hình phạt cần áp dụng các quy định tại Chương XII BLHS để đảm bảo chính sách hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội cho bị cáo.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như xét xử, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS và được người bị hại có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS; riêng các bị cáo Nguyễn Thành T1, Nguyễn Võ Hoàng A, Trần Bảo L đã bồ thường thiệt hại cho người bị hại nên được áp dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS, do có hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên bị cáo Nguyễn Võ Hoàng A, Trần Bảo L được áp dụng Điều 54 BLHS để áp dụng mức hình phạt dưới khung cho để các bị cáo thấy được chính sách khoan hồng Nhà nước mà an tâm cải tạo. Đối với bị cáo Đặng Quốc T có hành vi rủ rê bị cáo Nguyễn Võ Hoàng A người dưới 18 tuổi phạm tội nên áp dụng thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 BLHS.

[5] Đối với đơn xin rút yêu cầu khởi tố hình sự của bị hại Dương Minh Nh được chị Dương Thị Thanh Nguyệt ký tên và xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H, Hội đồng xét thấy: Bị hại Dương Minh Nh là người chưa đủ 18 tuổi. Hiện Dương Minh Nh còn cha, mẹ nhưng làm ăn xa không biết địa chỉ ở đâu, làm gì. Theo quy định tại khoản 1 Điều 136 BLDS năm 2015 thì cha, mẹ là người đại diện theo pháp luật đối với con chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi). Tại khoản 1 Điều 3 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi quy định: “Người đại diện của người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi được xác định theo thứ tự sau đây: a. Cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; b. Người giám hộ; c. Người do Tòa chỉ định”. Giải đáp số 01/2016 ngày 25/7/2016 của Tòa án nhân dân tối cao quy định: “.. trường hợp có căn cứ cho rằng việc xác định cha, mẹ của người chưa đủ 18 tuổi là người đại diện tham gia tố tụng không bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa đủ 18 tuổi thì Tòa án có thể xác định người thân thích khác của người chưa đủ 18 tuổi (như anh, chị ruột) có đủ điều kiện làm người giám hộ tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp của người chưa đủ 18 tuổi. Việc xác định người đại diện tham gia tố tụng trong trường hợp này phải căn cứ vào quy định tại các điều 48, 49 và 136 BLDS năm 2015”. Đối chiếu quy định pháp luật như viện dẫn trên với đơn xin rút yêu cầu khởi tố vụ án của Dương Minh Nh là chưa đúng quy định pháp luật nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo T1, Hoàng A, L đã bồi thường cho bị hại H 5.500.000 đồng; bị hại Trần Bình H, Dương Minh Nh không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng vụ án: Xét thấy vật chứng là phương tiện dùng vào việc phạm tội, không có giá trị sử dụng nên áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Đặng Quốc T, Nguyễn Thành T1, Nguyễn Võ Hoàng A, Trần Bảo L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ điểm a khoản 1 điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đặng Quốc T 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T1 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65; Điều 91 và Điều 101 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Võ Hoàng A 09 (Chín) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Nguyễn Võ Hoàng A cho Ủy ban nhân dân xã Q Nam, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo Nguyễn Võ Hoàng A có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự 2019.

Trong thời gian thử thách, người bị kết án cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người bị kết án Nguyễn Võ Hoàng A phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Bảo L 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 30 (Ba mươi) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Trần Bảo L cho Ủy ban nhân dân xã H, huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo Trần Bảo L có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người bị kết án cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người bị kết án Trần Bảo L phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 dao xếp dài 16,2cm; 01 cục bê tông diện (8 x 5 x 9.5)cm, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/6/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Hòa và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Hòa.

Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, các bị cáo Đặng Quốc T, Nguyễn Thành T1, Nguyễn Võ Hoàng A, Trần Bảo L mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 25/2021/HS-ST

Số hiệu:25/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Hoà - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;