Bản án về tội cố ý gây thương tích số 25/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC BÌNH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 25/2021/HS-ST NGÀY 29/03/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 29 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyên Bắc Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 05/2021/TLST-HS, ngày 13 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2021/HS-ST ngày 16 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Sẳm Tằng G, sinh năm 1985 tại tỉnh Bình Thuận.

Nơi cư trú: Thôn Hải Thủy, xã Hải Ninh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.

Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Hoa; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Sẳm A S và bà Lìu Nỉ Fóng; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

2. Sẳm Chìu S, sinh năm 1987 tại tỉnh Bình Thuận Nơi cư trú: Thôn Hải Thủy, xã Hải Ninh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.

Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam. dân tộc: Hoa; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 2/12. nghề nghiệp: Làm nông; con ông Sẳm A S và bà Lìu Nỉ Fóng; vợ: Hồ Đài Tr, sinh năm 1995; con: Có 02 người, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Sẳm Thín Ph, sinh năm 1976; (Có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Sẳm A S, sinh năm 1961; (Có mặt) 2. Chị Chướng Sắt M, sinh năm 1979; (Có mặt) - Người làm chứng:

1. Ông Chướng Cỏng S, sinh năm 1971; (Có mặt) 2. Chị Hồ Đài Tr, sinh năm 1995; (Có mặt) 3. Chị Sẳm Nhịt L, sinh năm 1991; (Có mặt) Cùng địa chỉ: Thôn Hải Thủy, xã Hải Ninh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 21/5/2020, Sẳm Tằng G và Sẳm Chìu S đang đứng bơm nước vào hồ nước chung của gia đình thì Chướng Sắc Múi (là vợ của Sẳm Thín Ph) đi đến chửi Sâu và Giểng, không cho Giểng và Sâu bơm nước vào hồ dẫn đến Sâu và Múi xảy ra cãi vã nhau, còn Giểng đứng kế bên không nói gì, rồi Múi lấy điện thoại gọi cho Sẳm Thín Ph báo sự việc. Một lúc sau, Phút đến thì xảy ra cãi nhau giữa vợ chồng Phút và Múi với Sâu và Giểng. Trong lúc cãi vã nhau, Phút dùng tay kéo ống xả nước máy bơm ra khỏi hồ làm nước chảy ra bên ngoài hồ. Thấy vậy, Giểng chạy vào chòi của gia đình Giểng ở gần đó lấy cây dao (loại dao tự tạo bằng kim loại màu đen, lưỡi và cán dao liền nhau có chiều dài 43cm, trong đó lưỡi dao dài 30cm, rộng 05cm, cán dao dài 13cm), còn Sâu chạy đi nhặt 02 cục đá tròn, có đường kính khoảng 04cm ở gần hồ cầm trên tay và quay lại cùng rượt đuổi đánh Phút một đoạn đường khoảng 30 mét thì Sâu cầm đá ném về phía Phút nhưng không trúng, do Phút bỏ chạy xa nên Sâu và Giểng không rượt theo nữa mà quay về lại chòi.

Chướng Sắc Múi nhìn thấy Phút bị rượt đánh nên Múi chạy đến hàng rào gần đó, rút 01 đoạn cây tre (loại tre trong đặc ruột có chiều dài 1,3m, đường kính 04cm) ra khỏi hàng rào, cầm đoạn tre chạy đến vị trí Sâu đang đứng đánh 01 cái từ phía sau trúng vào vùng lưng bên trái của Sâu, do bị đánh nên Sâu dùng tay đánh nhiều cái vào vùng đầu của Múi, rồi Sâu đi về chòi. Khoảng 5 phút sau, Chướng Cỏng S (là anh ruột của Múi) đi đến vị trí máy bơm, hỏi Múi: Có chuyện gì?, Múi nói: anh em Sâu và Giểng đánh vợ chồng Múi!, rồi Phút quay lại chỗ máy bơm, cả ba người Chướng Cỏng S, Phút, Múi chửi Sâu và Giểng. Lúc này, Sâu, Giểng, ông Sẳm A S (là cha ruột của Sâu, Giểng và Phút), Hồ Đài Tr (là vợ của Sẳm Chìu S), Sẳm Nhịt L (là con gái ruột của ông Sáng) cùng đi ra vị trí máy bơm nước. Do bị chửi nên Giểng cầm cây dao có đặc điểm nêu trên rượt đuổi đánh Phút, thì Phút bỏ chạy, thấy Giểng rượt đánh Phút thì Sâu nhặt 02 cục đá ở gần đó cầm trên tay cũng rượt theo sau Giểng để đánh Phút, nên Múi cũng cầm đoạn cây tre có đặc điểm nêu trên rượt đuổi theo Sâu, Giểng và Phút. Khi Phút bỏ chạy được khoảng 50 mét thì bị vấp té ngã ngửa, Giểng chạy đến cầm dao bằng tay phải chém 01 cái trúng vào vùng trán của Phút, Phút bị thương quay người khom lưng định bỏ chạy thì Giểng tiếp tục cầm dao chém cái thứ hai trúng vào vùng chẩm gây thương tích cho Phút. Phút đang lom khom vùng dậy bỏ chạy, thì Sâu cầm cục đá chạy đến ném trúng vào phía sau lưng của Phút nhưng không gây thương tích cho Phút; thấy Phút bị chém thì Múi cầm 01 đoạn tre chạy đến vị trí của Sâu và Giểng đánh vào vùng đầu của Sâu và Giểng mỗi người 01 cái. Sẳm A S, Trang và Lìn đứng gần đó đến can ngăn việc Múi đánh Sâu và Giểng. Sẳm A S khai: Sáng đi đến can ngăn Sâu, thì bị Múi cầm đoạn cây tre đánh 01 cái trúng vào mu bàn tay phải ông Sáng, nhưng Múi không thừa nhận đánh ông Sáng.

Sau đó; Sẳm A S, Sẳm Chìu S, Sẳm Tằng G, Sẳm Thín Ph và Chướng Sắt M đều bị thương được người thân đưa đến Bệnh viên đa khoa khu vực Bắc Bình Thuận cấp cứu và điều trị. Sau khi xuất viện về nhà, Sáng, Sâu, Giểng, Phút và Múi đều làm đơn xin đi gám định thương tích và đề nghị khởi tố vụ án hình sự.

*Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 265/2020/TgT ngày 09 tháng 07 năm 2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Thuận kết luận thương tích của Sẳm Thín Ph:

-Vết thương phần mềm vùng trán, đã được điều trị hiện để lại sẹo lành, kích thước: 5 x 0,1 cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể 6%.

-Vết thương phần mềm vùng chẩm, đã được điều trị hiện để lại sẹo lành, kích thước: 2,3 x 0,1 cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể 1%.

-Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 7% (Bảy phần trăm).

-Các vết thương do vật sắc gây ra.

-Vết thương vùng trán có chiều hướng tác động từ trước ra sau; Vết thương vùng chẩm có chiều hướng tác động từ sau ra trước.

*Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 275/2020/TgT ngày 13 tháng 07 năm 2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Thuận kết luận thương tích của Sẳm Chìu S:

-Vết thương phần mềm vùng đỉnh trái, đang được điều trị hiện còn 01 mũi chỉ, dài 01cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể 01%.

-Chấn thương sưng nề vai trái, đã được điều trị hiện không còn dấu vết.

Không đủ cơ sở xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể.

-Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 1% (Một phần trăm).

-Vết thương do vật tày gây ra.

-Vết thương có chiều hướng tác động từ trên xuống dưới với lực tác động nhẹ.

*Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 274/2020/TgT ngày 13 tháng 07 năm 2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Thuận kết luận thương tích của Sẳm A S:

-Chấn thương mặt mu bàn tay phải, sây sát da gãy đốt gần ngón V bàn tay phải, đã được điều trị hiện cal xương chưa ổn định, để lại sẹo lành, kích thước: 1x 0,2cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 2%+1%.

-Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 03%.

-Vết thương do vật tày gây ra.

-Vết thương có chiều hướng tác động theo tư thế cơ năng của cơ thể với vật gây thương với lực tác động trung bình.

*Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 273/2020/TgT ngày 13 tháng 07 năm 2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Thuận kết luận thương tích của Sẳm Tằng G:

- Chấn thương phần mềm vùng đỉnh đầu, đã được điều trị hiện không để lại dấu vết. Không đủ cơ sở xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể.

- Không đủ cơ sở xác định vật gây thương.

- Không đủ cơ sở xác định chiều hướng tác động gây thương.

*Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 320/2020/TgT ngày 13 tháng 08 năm 2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Thuận kết luận thương tích của Chướng Sắt M:

- Chấn thương đỉnh đầu hiện không còn dấu vết. Không đủ cơ sở xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể.

- Không đủ cơ sở xác định vật gây thương.

- Không đủ cơ sở xác định chiều hướng tác động gây thương.

Về tang, vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra thu giữ: 01 cây dao (loại dao tự tạo bằng kim loại màu đen, lưỡi và cán dao liền nhau có chiều dài 43cm, trong đó lưỡi dao dài 30cm, rộng 05cm, cán dao dài 13cm) do Sẳm Tằng G giao nộp vào ngày 02/6/2020 và 01 đoạn cây tre tròn, đặt ruột, có chiều dài 1,3 mét, đường kích 04cm do Chướng Sắt M giao nộp vào ngày 08/6/2020; Cơ quan điều tra đã chuyển vào kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Bình để xử lý theo quy định pháp luật.

Đối với cục đá có đặc điểm hình tròn, màu đỏ trắng, có đường kích khoảng 40 cm mà Sẳm Chìu S khai Sâu cầm cục đá ném Sẳm Thìn Phút tại khu vực đồng Tấn Mài, thuộc thôn Hải Thủy, xã Hải Ninh; Cơ quan Công an đã tiến hành truy tìm nhưng không tìm thấy nên không có căn cứ đề nghị xử lý.

Về trách nhiệm dân sự:

Sẳm Thín Ph yêu cầu Sẳm Tằng G và Sẳm Chìu S bồi thường tiền điều trị thương tích là 9.349.563 đồng;

Chướng Sắt M yêu cầu Sẳm Chìu S bồi thường tiền điều trị thương tích 1.906.977 đồng;

Sẳm Chìu S yêu cầu Chướng Sắt M bồi thường tiền điều trị thương tích 1.192.000 đồng;

Sẳm Tằng G yêu cầu Chướng Sắt M bồi thường tiền điều trị thương tích 797.000 đồng.

Sẳm A S yêu cầu Chướng Sắt M bồi thường tiền điều trị thương tích 845.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 07/CT-VKS.HBB ngày 12/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận đã truy tố bị cáo Sẳm Tằng G và Sẳm Chìu S về tội: “Cố ý gây thương tích”, quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; b, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Sẳm Tằng G từ 06 đến 09 tháng tù;

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38; khoản 1 Điều 54, Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Sẳm Chìu S từ 03 đến 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 12 tháng.

Về xử lý vật chứng:

Áp dụng: khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 cây dao (loại dao tự tạo bằng kim loại màu đen, lưỡi và cán dao liền nhau có chiều dài 43cm, trong đó lưỡi dao dài 30cm, rộng 05cm, cán dao dài 13cm) do Sẳm Tằng G giao nộp vào ngày 02/6/2020 và 01 đoạn cây tre tròn, đặt ruột, có chiều dài 1,3 mét, đường kích 04cm do Chướng Sắt M giao nộp vào ngày 08/6/2020.

Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự;

Áp dụng các Điều 357, 586, 587, 589, 590 của Bộ luật Dân sự;

Đề nghị công nhận sự tự nguyện thỏa thuận của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan như sau:

Bị cáo Sẳm Tằng G và bị cáo Sẳm Chìu S đồng ý bồi thường cho bị hại Sẳm Thín Ph là 9.349.563 đồng;

Bị cáo Sẳm Chìu S đồng ý bồi thường cho bà Chướng Sắt M là 1.906.977 đồng;

Bà Chướng Sắt M đồng ý bồi cho bị cáo Sẳm Chìu S là 1.192.000 đồng và bồi thường cho bị cáo Sẳm Tằng G là 797.000 đồng.

Không chấp yêu cầu của ông Sẳm A S về việc yêu cầu bà Chướng Sắt M bồi thường tiền điều trị thương tích 845.000 đồng.

Tại phiên tòa: Bị cáo Sâu thừa nhận hành vi của phạm tội của mình là trái pháp luật. Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với phần luận tội của Viện kiểm sát, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo Giểng thừa nhận hành vi phạm tội của mình, nhưng cho rằng mức hình phạt mà đại viện kiểm sát đề nghị là nặng hành.

Bị hại đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận gì.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo Giểng và bị cáo Sâu đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình giải quyết vụ án, từ giai đoạn điều tra đến truy tố, điều tra viên và kiểm sát viên đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì về hành vi cũng như quyết định tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng nêu trên là đúng pháp luật.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Xét, việc thừa nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu, lời khai có trong hồ sơ vụ án cũng như đã được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với vật chứng của vụ án đã được thu giữ trong quá trình điều tra, nên đủ cơ sở xác định:

Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 21/5/2020, trong lúc cãi nhau giữa vợ chồng Phút và Múi với Sâu và Giểng ở gần hồ nước. Do bị Chướng Cỏng S, Phút, Múi chửi nên Giểng cầm cây dao rượt đuổi đánh Phút, thì Phút bỏ chạy, thấy Giểng rượt đánh Phút thì Sâu nhặt 02 cục đá ở gần đó cầm trên tay cũng rượt theo sau Giểng để đánh Phút, nên Múi cũng cầm đoạn cây tre có đặc điểm nêu trên rượt đuổi theo Sâu, Giểng và Phút. Khi Phút bỏ chạy được khoảng 50 mét thì bị vấp té ngã ngửa, Giểng chạy đến cầm dao bằng tay phải chém 01 cái trúng vào vùng trán của Phút, Phút bị thương quay người khom lưng định bỏ chạy thì Giểng tiếp tục cầm dao chém cái thứ hai trúng vào vùng chẩm gây thương tích cho Phút. Phút đang lom khom vùng dậy bỏ chạy, thì Sâu cầm cục đá chạy đến ném trúng vào phía sau lưng của Phút nhưng không gây thương tích cho Phút. Theo kết luận giám định pháp y thì tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với bị hại Phút hiện tại là 07%. Tuy tỷ lệ thương tích các bị cáo gây ra là 07%, nhưng các bị cáo đã sử dụng dao là hung khí nguy hiểm nên bị cáo phải chịu trách nhiệm về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự. Như vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố các bị cáo về tội danh nêu trên hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của bị hại. Chỉ vì muốn giải quyết mâu thuẫn cá nhân mà các bị cáo đã dùng hung khí gây thương tích cho bị hại. Hành vi của các bị cáo không những vi phạm pháp luật mà còn gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử cần xử phạt các bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo.

[4] Tuy nhiên, cần xem xét đến tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo. Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng, trong vụ án này, bị cáo Giểng là người trực tiếp thực hiện hành vi gây thương tích cho bị hại Phút, còn bị cáo Sâu chỉ là người giúp sức cho bị cáo Giểng thực hiện hành vi nên bị cáo Giểng phải chịu mức hình phạt nghiêm khắc hơn so với bị cáo Sâu.

Đối với bị cáo Sâu, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, ngày 13/01/2021 bị cáo đã tự nguyện nộp tiền để bồi thường thiệt hại.

Đối với bị cáo Giểng, trong giai đoạn điều tra, truy tố, bị cáo không thành khẩn khai báo. Nhưng tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, ngày 13/01/2021 bị cáo đã tự nguyện nộp tiền để bồi thường thiệt hại.

Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo là người dân tộc, việc nhận thức có phần hạn chế, các bị cáo và bị hại lại có mối quan hệ huyết thống với nhau. Sự việc xảy ra có một phần lỗi của bị hại. Tại phiên tòa, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà giao cho chính quyền địa phương và gia đình giám sát giáo dục bị cáo..

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Xét thấy bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã thỏa thuận và thống nhất mức bồi thường nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận này như sau:

Bị cáo Sẳm Tằng G và bị cáo Sẳm Chìu S đồng ý bồi thường cho bị hại Sẳm Thín Ph là 9.349.563 đồng;

Bị cáo Sẳm Chìu S đồng ý bồi thường cho bà Chướng Sắt M là 1.906.977 đồng;

Bà Chướng Sắt M đồng ý bồi thường cho bị cáo Sẳm Chìu S là 1.192.000 đồng và bồi thường cho bị cáo Sẳm Tằng G là 797.000 đồng.

Đối với yêu cầu của ông Sẳm A S về việc yêu cầu bà Chướng Sắt M bồi thường tiền điều trị thương tích 845.000 đồng. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên Tòa, bà Múi không thừa nhận cáo đánh ông Sẳm A S và cũng không có tài liệu chứng cứ nào xác định bà Múi có hành vi đánh ông Sáng gây thương tích nên không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu cầu ông Sắm A Sáng.

Đối với số tiền 6.000.000 đồng của bị cáo Giểng và số tiền 3.394.563 đồng của bị cáo Sâu đã tự nguyện nộp tại Chi cục thi hành dân sự huyện Bắc Bình để bồi thường để bồi thường cho bị hại thì tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 cây dao (loại dao tự tạo bằng kim loại màu đen, lưỡi và cán dao liền nhau có chiều dài 43cm (trong đó lưỡi dao dài 30cm, rộng 05cm, cán dao dài 13cm) do Sẳm Tằng G giao nộp vào ngày 02/6/2020 và 01 đoạn cây tre tròn, đặc ruột, có chiều dài 1,3 mét, đường kích 04cm do Chướng Sắt M giao nộp vào ngày 08/6/2020 liên quan đến việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.

Đối với cục đá có đặc điểm hình tròn, màu đỏ trắng, có đường kích khoảng 40 cm mà Sẳm Chìu S khai Sâu cầm cục đá ném Sẳm Thìn Phút tại khu vực đồng Tấn Mài, thuộc thôn Hải Thủy, xã Hải Ninh; Cơ quan Công an đã tiến hành truy tìm nhưng không tìm thấy nên không có căn cứ đề nghị xử lý.

[7] Đối với Chướng Sắt M cầm đoạn cây tre chạy đến đánh Sâu 01 cái hướng từ trên xuống trúng vào đỉnh trái của Sâu gây thương tích cho Sâu 01% và cầm cây tre đánh Sẳm Tằng G 01 cái vào đỉnh đầu nhưng không xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể. Hành vi nêu trên của Chướng Sắt M thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Bình không khởi tố xử lý hình sự và có công văn đề nghị Công an xã Hải Ninh xử lý vi phạm hành chính là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 65 Bộ luật hình sự.

Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 246 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Các Điều 584, 585, 586, 587 và 590 của Bộ luật Dân sự.

1. Tuyên bố: Các bị cáo Sẳm Tằng G và Sẳm Chìu S cùng phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Xử phạt:

Bị cáo Sẳm Tằng G 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án (29-3-2021).

Bị cáo Sẳm Chìu S 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (Mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án (29-3-2021).

Giao các bị cáo Sẳm Tằng G và Sẳm Chìu S cho Ủy ban nhân dân xã Hải Ninh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát và giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (Hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3.Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 cây dao (loại dao tự tạo bằng kim loại màu đen, lưỡi và cán dao liền nhau có chiều dài 43cm, trong đó lưỡi dao dài 30cm, rộng 05cm, cán dao dài 13cm) do Sẳm Tằng G giao nộp vào ngày 02/6/2020 và 01 đoạn cây tre tròn, đặc ruột, có chiều dài 1,3 mét, đường kích 04cm do Chướng Sắt M giao nộp vào ngày 08/6/2020.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13/01/2021 giữa Công an huyện Bắc Bình và Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Bình).

4. Về trách nhiệm dân sự:

4.1. Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận bồi thường thiệt hại về sức khỏe của các bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cụ thể như sau:

Bị cáo Sẳm Tằng G và bị cáo Sẳm Chìu S đồng ý bồi thường cho bị hại Sẳm Thín Ph số tiền 9.349.563 đồng;

Bị cáo Sẳm Chìu S đồng ý bồi thường cho bà Chướng Sắt M số tiền 1.906.977 đồng;

Bà Chướng Sắt M đồng ý bồi thường cho bị cáo Sẳm Chìu S số tiền 1.192.000 đồng;

Bà Chướng Sắt M đồng ý bồi thường cho bị cáo Sẳm Tằng G số tiền 797.000 đồng.

4.2. Tiếp tục tạm giữ số tiền 6.000.000 đồng của bị cáo Sẳm Tằng G theo các biên lai thu tiền số 005522 và số tiền 3.394.563 đồng của bị cáo Sẳm Chìu S theo biên lai thu tiền số 005523 ngày 13/01/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận để đảm bảo thi hành án.

4.3. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe của ông Sẳm A S đối với bà Chướng Sắt M với số tiền 845.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thi hành xong số tiền phải thi hành án thì phải chịu thêm khoản lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền còn phải thi hành.

5. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Buộc mỗi bị cáo Sẳm Tằng G và bị cáo Sẳm Chìu S phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Sẳm Chìu S phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Chướng Sắt M phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (29/3/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 25/2021/HS-ST

Số hiệu:25/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Bình - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;