Bản án về tội cố ý gây thương tích số 17/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 17/2020/HS-ST NGÀY 06/03/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 06 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 02 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:19/2020/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Đàm Văn D, tên gọi khác: Đàm K; sinh ngày 26/02/1954, tại huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi sinh sống: Thôn P, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 5/10; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đàm Văn K (Đàm Viết K) và bà Bế Thị K; vợ: Lô Thị L; con: Có 5 con, con lớn nhất sinh 1974, con nhỏ nhất sinh 1992; bị cáo là đảng viên, ngày 02 tháng 01 năm 2020, Ủy ban kiểm tra Huyện ủy V đã ra Quyết định số 121- QĐ/UBKTHU đình chỉ sinh hoạt Đảng đối với Đàm Văn D; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xử lý hình sự, hành chính lần nào; bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 09/12/2019 đến cho đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Đàm Văn D: Bà Chu Bích T – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Bị hại:

Ông Đàm Văn S, sinh năm 1962.

Địa chỉ: Thôn P, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người làm chứng:

Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Thôn P, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do đã uống rượu và có mâu thuẫn từ trước đó, khoảng 15 giờ 30 phút ngày 04/11/2019 Đàm Văn D đi bộ từ nhà ở thôn P, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn với mục đích đi ra sông bắt cá, khi đi không đem theo gì và trên đường đi gần đến chuồng trâu của gia đình ông Đàm Văn S là người cùng thôn với Đàm Văn D, thì gặp ông Đàm Văn S đang cầm 01 con dao thái rau, cỏ cho trâu ăn, thấy vậy ông Đàm Văn S nói “Thằng D đảng viên phản động”, thì Đàm Văn D nói “Tao không nợ gì đâu, sao lại chửi tôi như thế”; thì lúc này ông Đàm Văn S thực hiện hành vi cầm con dao bằng kim loại có kích thước dài 45cm, phần lưỡi dao dài 32cm, phần cán gỗ dài 13cm, bản rộng 5,5cm dơ lên đe dọa Đàm Văn D dẫn đến hai bên xảy ra xô sát, đẩy nhau, quá trình xô đẩy Đàm Văn D dùng tay trái nhặt lấy 01 đoạn cây bằng gỗ ở gần đó đập 01 phát vào vai phải của ông Đàm Văn S, làm con dao trên tay ông Đàm Văn S rơi xuống đất, thấy vậy Đàm Văn D tiếp tục cúi xuống và dùng tay trái nhặt lấy con dao, dơ lên chém 02 phát theo chiều hướng từ trên xuống trúng vào vùng đỉnh đầu ông Đàm Văn S gây thương tích, sau đó Đàm Văn D đi về nhà, còn Đàm Văn S được mọi người đưa đến Trung tâm y tế huyện V cấp cứu điều trị vết thương. Sau khi xảy ra sự việc, cùng ngày 04/11/2019 Công an huyện V đã tiếp nhận thông tin, lập biên bản vụ việc, biên bản khám nghiệm hiện trường và thu giữ vật chứng.

Tại bệnh án ngoại khoa số 31079 ngày 04/11/2019 của Bệnh viện đa khoa tỉnh Lạng Sơn và bệnh án ngoại khoa số 6443 ngày 07/11/2019 của Trung tâm y tế huyện V, tỉnh Lạng Sơn chuẩn đoán vết thương đối với Đàm Văn S, 02 vết thương vùng trán đỉnh (vết thứ nhất có kích thước 7cm; vết thứ hai có kích thước 3cm). Quá trình điều trị đến ngày 14/11/2019 ông Đàm Văn S ra viện, với tình trạng sức khỏe ổn định.

Ngày 03/12/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã quyết định trưng cầu giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể đối với Đàm Văn S. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 379/2019/PYTT ngày 03/12/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Lạng Sơn kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Đàm Văn S hiện tại là “Sẹo vùng trán đỉnh phải, tỷ lệ 01%; sẹo vùng trán đỉnh, tỷ lệ 02%; vỡ bản ngoài xương sọ vùng trán, điện não có tổn thương, tỷ lệ 09%).

Tổng tỷ lệ 12% (mười hai phần trăm), cơ chế hình thành vết thương do vật sắc tác động trực tiếp gây nên.

Về trách nhiệm dân sự: Tại cơ qua điều tra và tại phiên tòa bị hại ông Đàm Văn S yêu cầu bị cáo phải bồi thường các khoản như bồi thường thiệt hại sức khỏe và các khoản chi phí trong việc cấp cứu điều trị vết thương tiền xe đi cấp cứu, bồi dưỡng sức khỏe, tiền mất thu nhập. Tổng cộng là 5.000.000 (năm triệu) đồng, ngoài ra bị hại Đàm Văn S không yêu cầu gì thêm.

Tại phiên tòa bị cáo Đàm Văn D nhất trí, thỏa thuận với bị hại ông Đàm Văn S mức bồi thường là 5.000.000 (năm triệu) đồng.

Đối với hành vi của ông Đàm Văn S, quá trình điều tra xét thấy chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Do vậy ngày 15/01/2020 Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã quyết định xử phạt vi phạm hành chính, bằng hình thức phạt tiền 200.000 (hai trăm nghìn) đồng đối với hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm người khác.

Đối với vật chứng gồm: 01 (một) con dao dài 45cm, phần lưỡi dao dài 32cm, phần cán bằng gỗ dài 13cm, bản rộng 5,5cm; 01 (một) thanh gỗ dài 110cm, đường kính 03cm và 01 (một) chiếc áo dài tay màu xanh. Ngày 10/02/2020 Viện kiểm sát đã ra quyết định chuyển đến Cơ quan Thi hành án dân sự huyện Văn Lãng để quản lý, xử lý theo quy định.

Bản cáo trạng số 16/CT-VKS ngày 10/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Đàm Văn D về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Đàm Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi của của mình, như cáo trạng đã nêu. Bị cáo thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, tỏ ra ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Đàm Văn D về tội “Cố ý gây thương tích” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù giam.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47, Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao dài 45cm, phần lưỡi dao dài 32cm, phần cán bằng gỗ dài 13cm, bản rộng 5,5cm; 01 (một) thanh gỗ dài 110cm, đường kính 03cm và 01 (một) chiếc áo dài tay màu xanh.

Về trách nhiệm dân sự, công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại về bồi thường thiệt hại về sức khỏe cụ thể bị cáo bồi thường cho bị hại tổng cộng là 5.000.000 (năm triệu) đồng.

Án phí bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bà Chu Bích T bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị cáo Đàm Văn D trình bày quan điểm: Mức hình phạt đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đưa ra là phù hợp. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo 02 năm tù.

Về phần dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; về xử lý vật chứng nhất trí quan điểm của Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đưa ra là phù hợp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, người bào chữa đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại, người chứng kiến, biên bản sự việc, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án, cụ thể: Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 04/11/2019 tại thôn P, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn bị cáo Đàm Văn D đã thực hiện hành vi dùng tay trái cầm 01 (một) con dao bằng kim loại dao dài 45cm, phần lưỡi dao dài 32cm, phần cán bằng gỗ dài 13cm, bản rộng 5,5cm chém 02 (hai) phát vào vùng trán (đỉnh) ông Đàm Văn S gây thương tích, với tỷ lệ tổn thương cơ thể 12%. Nhận thấy bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn truy tố hành vi của bị cáo Đàm Văn D đủ yếu tố cấu thành tội Cố ý gây thương tích theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, thuộc trường hợp nghiêm trọng, cần xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội với lỗi cố ý trực tiếp nhằm gây thương tích trên cơ thể người bị hại là nguy hiểm, hành vi đó đã trực tiếp gây tổn hại đến sức khoẻ của người bị hại và làm mất trật tự trị an xã hội, gây nên sự hoang mang dao động trong quần chúng nhân dân. Chúng ta đều biết quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ của công dân được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm hại đều phải được nghiêm trị thích đáng. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt thật nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định, để làm gương cho những người có tư tưởng muốn tước đoạt tính mạng của người khác và phòng ngừa chung. Tuy nhiên trong vụ án này bản thân bị hại ông Đàm Văn S cũng có một phần lỗi “trước khi xảy ra vụ án thì ông Đàm Văn S có hành động bằng lời nói xúc phạm đến danh dự, ảnh hưởng đến tâm lý và thực hiện hành vi trái quy định của pháp luật là cầm dao dơ lên đe dọa Đàm Văn D” dẫn đến bị cáo Đàm Văn D không làm chủ động được hành vi, mới gây ra nguyên nhân cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Xét về nhân thân: Bị cáo là người có thể chất phát triển bình thường, trước khi phạm tội bị cáo là Đảng viên. Huyện ủy huyện V đã có Quyết định đình chỉ sinh hoạt Đảng, bị cáo nhận thức được việc đánh nhau là vi phạm pháp luật, nhưng không gương mẫu mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, ảnh hưởng không tốt đến hình ảnh của người Đảng viên. Hành vi thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp nhằm gây thương tích trên cơ thể người bị hại là nguy hiểm, hành vi đó đã trực tiếp gây tổn hại đến sức khoẻ của bị hại và làm mất trật tự trị an xã hội, gây nên sự hoang mang dao động trong quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo Đàm Văn D chưa có tiền án, tiền sự; về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có; về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, ngoài ra bị cáo còn được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự vì là người cao tuổi; bố đẻ của bị cáo là Đàm Viết K được tặng thưởng Huy chương hạng nhì, do có thành tích trong cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc.

[5] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát, đề nghị về mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ là phù hợp với hành vi của bị cáo gây ra. Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ, nên được chấp nhận.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự công nhận quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự về phần bồi thường. Bị cáo Đàm Văn D thỏa thuận với bị hại Đàm Văn S, bị cáo bồi thường cho Đàm Văn S số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng. Kể từ khi án có hiệu lực bị hại có đơn yêu cầu thi hành án, bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự. Xét thấy, sự thỏa thuận của các đương sự với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47, Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao dài 45cm, phần lưỡi dao dài 32cm, phần cán bằng gỗ dài 13cm, bản rộng 5,5cm; 01 (một) thanh gỗ dài 110cm, đường kính 03cm và 01 (một) chiếc áo dài tay màu xanh.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo Đàm Văn D phải chịu án phí hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[9] Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 332 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[10] Tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo bà Chu Bích T - Trợ giúp viên Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn trình bày quan điểm giải quyết vụ án: Về phần hình phạt, xử lý vật chứng, phần trách nhiệm dân sự công nhận sự thỏa thuận của các đương là hoàn toàn tự nguyện nên được công nhận, đề Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận nêu trên. Hội đồng xét xử xét thấy là hợp lý, phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 47; Điều 50; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 332 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Đàm Văn D phạm tội Cố ý gây thương tích.

Xử phạt bị cáo Đàm Văn D 02 (hai) năm tù giam, thời hạn tính từ ngày bắt đi thi hành bản án.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao dài 45cm, phần lưỡi dao dài 32cm, phần cán bằng gỗ dài 13cm, bản rộng 5,5cm; 01 (một) thanh gỗ dài 110cm, đường kính 03cm và 01 (một) chiếc áo dài tay màu xanh.

(Vật chứng trên hiện được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn theo nội dung biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/02/2020).

3. Trách nhiệm dân sự: Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo Đàm Văn D với bị hại Đàm Văn S bị cáo bồi thường số tiền là 5.000.000 (năm triệu) đồng cho ông Đàm Văn S.

Kể từ khi án có hiệu lực bị hại có đơn yêu cầu thi hành án, bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Đàm Văn D phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự. Tổng cộng bị cáo Đàm Văn D phải chịu 500.000 (năm trăm nghìn) đồng nộp Ngân sách Nhà nước.

5. Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 17/2020/HS-ST

Số hiệu:17/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;