Bản án về tội cố ý gây thương tích số 170/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 170/2022/HS-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 139/2022/TLST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn A (Tên gọi khác: không), sinh năm: 1973 tại Bình Thuận.

Nơi đăng ký thường trú: khu phố 1, phường B, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận; Nơi ở hiện tại: khu phố 9, phường C, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Dân tộc: kinh; giới tính nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: không biết chữ. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1932, nghề nghiệp: Già yếu. Trú tại: khu phố 1, phường B, thành phố Phan Thiết và bà Nguyễn Thị E (đã chết), có vợ Phạm Thị F, sinh năm 1971, nghề nghiệp: Nội trợ, có hai người con, lớn nhất sinh năm 1991, nhỏ nhất sinh năm 1992. Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 03/6/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Thiết.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Ông Võ Đình G, sinh năm: 1978 (có mặt) Nơi cư trú: khu phố 9, phường C, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

* Người làm chứng:

- Ông Phan Anh H, sinh năm: 1949 (vắng mặt) Địa chỉ: khu phố 9, phường C, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

- Ông Lâm Quốc I, sinh năm: 1971 (vắng mặt) Địa chỉ: khu phố 2, phường J, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận

- Ông Phạm Văn K, sinh năm: 1968 (vắng mặt) Địa chỉ: khu phố 9, phường C, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ 15 phút ngày 24/01/2022, ông Võ Đình G, ông Phạm Anh H, ông Phạm Văn K, cùng trú tại khu phố 9, phường C, thành phố Phan Thiết và ông Lâm Quốc I có tổ chức nhậu và hát karaoke bằng loa di động tại hẻm 161 đường Hải Thượng Lãn Ông, thuộc khu phố 9, phường C, thành phố Phan Thiết (bên hông nhà ông Phạm Văn K). Trong lúc nhậu và hát karaoke thì Nguyễn Văn A (là hàng xóm ở sát nhà ông B) cho rằng nhóm của G hát Karaoke gây ồn ào trong khu dân cư, nên A đi ra chửi “Đụ má các ông có tắt máy không thì nói một tiếng”, sau đó A dùng một cục gạch ném vào nơi ông G, H, B, I đang ngồi nhậu nhưng không trúng ai rồi bỏ đi vào nhà. Lúc này nhóm ông G không hát karaoke nữa mà chỉ mở nhạc. Khi về nhà, A vẫn còn nghe tiếng nhạc ồn ào nên đi ra mở cốp xe mô tô của A lấy cái ná dây thun, nhặt một viên đá gắn vào ná rồi bắn vào nơi H, G, B, I đang ngồi nhậu, ông G lao tới ngăn cản thì bị A bắn trúng vào cẳng tay phải. Lúc này ông G đi đến chửi nhau với A thì bà Phạm Thị U (tên thường gọi là Bé) vợ của A ra can ngăn và đưa A về. Nhóm ông G cũng tắt loa và tiếp tục nhậu. Khi về nhà, A vẫn còn bực tức nên tiếp tục cầm ná dây thun đi vòng ra phía sau nhà ông B với mục đích bắn vào nơi G, H, B, I đang ngồi nhậu nhưng A chưa kịp bắn thì bị ông I phát hiện và la lên. Lúc này ông H lấy một đoạn ống nước nhựa dài 1,05 mét nhảy qua hàng rào lưới B40 nhà ông B đuổi đánh A thì A bỏ chạy ra phía trước nhà ông B. Ông H cầm ống nước đuổi theo và đánh từ phía sau, A quay lại và chụp được cây nhựa rồi ôm ông H quật xuống đất. Khi A và ông H giằng co thì có Trần Phan Hoàng T (sinh ngày 28/03/2004, trú khu phố 9, phường C là cháu ngoại ông H) chạy đến dùng tay đấm nhiều cái vào mặt A. Lúc này được mọi người can ngăn và đưa A đi về nhà.

Khi về nhà, A bực tức việc mình bị đánh nên khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, A mở cốp xe mô tô của mình lấy một cây kéo bằng kim loại (theo A khai dùng để bóc vỏ nhựa dây điện) dài 19 cm (cán dài 11cm, lưỡi sắc nhọn dài 8cm), cầm cán kéo bằng tay trái qua chỗ G, H, B, I đang nhậu. Khi A đi đến gần hàng rào lưới B40 nhà ông B định mở cổng để đi vào nơi ông G cùng mọi người đang nhậu thì ông G chạy đến đóng cổng lại, hai bên giằng co và thách đố nhau.

Khi A đứng sát bên ngoài hàng rào lưới B40 còn ông G đứng bên trong và áp sát vào hàng rào thì A cầm kéo bằng tay trái hướng phần lưỡi vào người ông G đâm 01 nhát qua lưới B40 trúng vào vùng ngực phải ông G. Sau đó, A rút kéo ra thì thấy ngực ông G chảy máu nên A bỏ về nhà mang kéo đi cất. Sau đó, khi công an phường C tới giải quyết sự việc thì A mang kéo giao nộp.

Sau khi bị A đâm gây thương tích, ông G được đưa đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận cấp cứu, đến ngày 05/02/2022 thì xuất viện. Ngày 14/02/2022, ông G có đơn yêu cầu giám định thương tích và xử lý hình sự đối với Nguyễn Văn A.

Quá trình điều tra, A đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án. Căn cứ bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 169/2022/TgT ngày 14/03/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Thuận kết luận thương tích của Võ Đình G như sau:

- Vết thương ngực phải thấu ngực, thủng cơ hoành, thủng phổi phải, tràn máu màn phổi phải, tràn khí dưới da đã được phẫu thuật điều trị, hiện tràn dịch màn phổi phân thùy VI phải, dập phổi phân thuỳ V phải, để lại sẹo vết thương trùng với sẹo vết thương mổ kích thước: 9,5 x 0,3 cm; sẹo ống dẫn lưu kích thước:

2,5 x 0,4 cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 21% + 20% + 3% + 1%.

- Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên cho ông Võ Đình G hiện tại là: 39% (ba chín phần trăm).

- Vết thương do vật sắt nhọn gây ra.

- Vết thương có chiều hướng tác động từ trước ra sau, với lực tác động mạnh.

- Hiện không xác định cố tật.

Vật chứng của vụ án:

- 01 cây kéo bằng kim loại chiều dài 19cm, phần cán được bọc cao su màu vàng đen dài 11cm, phần lưỡi dài 08cm, do Nguyễn Văn A giao nộp.

- 01 ống nhựa màu xanh dài 1,05 mét, do Phan Thanh H giao nộp.

Đối với những vật chứng nêu trên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết đã ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết bảo quản chờ xử lý tiếp theo.

Về dân sự: Quá trình điều tra ông Võ Đình G yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn A bồi thường chi phí điều trị thương tích 31.459.000 đồng. Hiện A chưa thực hiện nghĩa vụ bồi thường.

Tại Cáo trạng số 136/CT-VKSPT-HS ngày 13 tháng 9 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn A về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A mức án từ 05 năm tù đến 06 năm tù.

Về dân sự: Tại phiên tòa, bị cáo tự nguyện đồng ý bồi thường cho bị hại số tiền 31.459.000 đồng. Đây là sự tự nguyện của bị cáo nên đề nghị Tòa án công nhận.

Tại phiên tòa, bị cáo không bào chữa về lời luận tội của Kiểm sát viên về tội danh, về hình phạt xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố theo hồ sơ đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự và thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. [2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng có trong hồ sơ vụ án thể hiện:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 24/01/2022, tại bên hông nhà ông Phạm Văn K ở khu phố 9, phường C, thành phố Phan Thiết, xuất phát từ mâu thuẫn trong việc Võ Đình G hát karaoke to tiếng nên giữa Nguyễn Văn A và G cãi vã và xô xát lẫn nhau. Khi G đang đứng trong hàng rào lưới B40 nhà ông B, A đứng ngoài hàng rào, hai bên đang chửi bới, thách đố lẫn nhau thì A cầm một cái kéo có lưỡi dao sắc nhọn dài 8cm bằng tay trái đâm một nhát trúng vào vùng ngực phải ông G gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 39%.

Nguyễn Văn A đã sử dụng kéo có lưỡi bằng kim loại sắc nhọn, là hung khí nguy hiểm đâm gây thương tích cho ông G với tỷ lệ tổn thương cơ thể 39%. Hành vi của A thuộc trường hợp “Dùng hung khí nguy hiểm”, là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 và điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết truy tố bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.

Xét thấy bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc cầm một cái kéo có lưỡi dao sắc nhọn đâm một nhát trúng vào vùng ngực phải của bị hại gây thương tích là xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của bị hại, là vi phạm pháp luật. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần phải xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

[5] Về tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là có căn cứ và đề nghị mức hình phạt cho bị cáo là tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Trên cơ sở cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định là cần thiết.

[7] Về dân sự: Ông Võ Đình G nhập viện điều trị thương tích do bị cáo Nguyễn Văn A gây ra tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận vào ngày 24/01/2022, ra viện ngày 05/02/2022.Tại phiên tòa, ông Võ Đình G yêu cầu bị cáo A phải bồi thường cho ông các khoản tiền có hóa đơn, chứng từ của Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận và Bệnh viện đa khoa An Phước cụ thể như sau: Tiền thuốc 2.809.000 đồng (theo đơn thuốc ngày 05/02/2022); tiền khám 160.000 đồng (theo hóa đơn bán hàng ngày 07/02/2022), tiền khám chữa bệnh 26.249.737 đồng (theo hóa đơn bán hàng ngày 05/02/2022); siêu âm, chụp cắt lớp vi tính chẩn đoán 1.120.000 đồng (theo phiếu thu tiền viện phí ngày 10/3/2022); siêu âm ổ bụng 120.000 đồng (theo phiếu chỉ định ngày 10/3/2022); chụp cắt lớp vi tính lồng ngực 1.000.000 đồng(theo phiếu chỉ định ngày 10/3/2022). Tổng cộng 31.459.000 đồng (làm tròn). Ngoài ra, ông G không có yêu cầu gì thêm. Xét thấy yêu cầu của ông G là những chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, điều trị vết thương, có hóa đơn chứng từ cụ thể, rõ ràng nên được chấp nhận. Tại phiên tòa, bị cáo A đã tự nguyện đồng ý bồi thường cho bị hại số tiền tiền. Xét thấy việc thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và bị hại là hoàn toàn tự nguyện nên Tòa án công nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại.

[8] Về xử lý vật chứng của vụ án: Một cây kéo bằng kim loại chiều dài 19cm, phần cán được bọc cao su màu vàng đen dài 11cm, phần lưỡi dài 08cm, do Nguyễn Văn A giao nộp. Và một ống nhựa màu xanh dài 1,05 mét do Phan Thanh H giao nộp. Đây là công cụ phạm tội do vậy cần áp dụng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự để tuyên tịch thu tiêu hủy.

[9] Nguyễn Văn A bị Trần Phan Hoàng T dùng tay đánh vào mặt nhưng do thương tích nhẹ, A không đến cơ sở điều trị thương tích và không yêu cầu giám định thương tích, xử lý hình sự đối với người đã đánh mình nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phan Thiết không xử lý đối với Thành là có căn cứ.

[10] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: Điểm c khoản 3 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

* Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn A 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 03/6/2022.

* Biện pháp tư pháp: Căn cứ vào Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 48 Bộ luật hình sự. Khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, Điều 590, Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự, tuyên:

- Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo Nguyễn Văn A và bị hại Võ Đình G là: bị cáo Nguyễn Văn A đồng ý bồi thường cho bị hại Võ Đình G số tiền 31.459.000 đồng (Ba mươi mốt triệu, bốn trăm năm mươi chín nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật(đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án(đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

* Xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, tuyên:

Tịch thu tiêu hủy một cây kéo bằng kim loại chiều dài 19cm, phần cán được bọc cao su màu vàng đen dài 11cm, phần lưỡi dài 08cm và một ống nhựa màu xanh dài 1,05 mét (Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 136 ngày 14 tháng 9 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết).

* Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn A phải nộp 200.000 đồng(Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.573.000 đồng(Một triệu năm trăm bảy mươi ba nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo bản án sơ thẩm của bị cáo và bị hại là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28/9/2022).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

82
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 170/2022/HS-ST

Số hiệu:170/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;